Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - CAO QUÝ CẢ HÌNH TƯỚNG VÀ PHONG CÁCH - Kinh Gaggarā (Gaggarāsuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - CAO QUÝ CẢ HÌNH TƯỚNG VÀ PHONG CÁCH - Kinh Gaggarā (Gaggarāsuttaṃ)

Thứ tư, 31/08/2022, 17:40 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 31.8.2022


CAO QUÝ CẢ HÌNH TƯỚNG VÀ PHONG CÁCH

Kinh Gaggarā (Gaggarāsuttaṃ)

(CHƯƠNG VIII. TƯƠNG ƯNG TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA) (S. i, 195)

Sự ra đời của chư Phật toàn giác là kết tinh của ba la mật hạnh từ vô lượng kiếp. Các Ngài toàn hảo từ thân tướng đến uy nghi cốt cách. Cho dù giữa cảnh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình hay trong đại chúng đông đảo trang nghiêm rạng rỡ thì hình ảnh của Đức Phật vẫn toả sáng không gì hơn được. Như nhật nguyệt giữa thái không với sự quang huy không gì hơn được, Bậc Vô Thượng Điều Ngự toạ vị tại hội chúng nào Ngài luôn tỏ rạng. Hình ảnh cao sang ấy là nguồn cảm hứng bất tuyệt cho những ai cảm kích giá trị của chân, thiện, mỹ trong đời nầy. Ngay cả sau hơn 25 thế kỷ hình ảnh của Phật vẫn là suối nguồn vi diệu cho văn học nghệ thuật và cho những tâm hồn biết tôn quý cái đẹp của chánh pháp.

Ekaṃ samayaṃ bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sattahi ca upāsakasatehi sattahi ca upāsikāsatehi anekehi ca devatāsahassehi. Tyāssudaṃ bhagavā atirocati [ativirocati (ka.)] vaṇṇena ceva yasasā ca.

Một thuở Đức Thế Tôn ngự bên bờ hồ Gaggarā ở Campā với đại chúng tỳ khưu khoảng năm trăm vị, cùng với bảy trăm nam cư sĩ, với bảy trăm nữ cư sĩ và vài ngàn chư thiên. Giữa đại chúng ấy, Thế Tôn chói sáng vượt bậc về ngoại hình và cốt cách.

Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sattahi ca upāsakasatehi sattahi ca upāsikāsatehi anekehi ca devatāsahassehi. Tyāssudaṃ bhagavā atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca. Yaṃnūnāhaṃ bhagavantaṃ sammukhā sāruppāya gāthāya abhitthaveyya’’nti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa khởi ý nghĩ: "Nay Đức Thế Tôn ngự bên bờ hồ Gaggarā ở Campā với đại chúng tỳ khưu khoảng năm trăm vị, cùng với bảy trăm nam cư sĩ, với bảy trăm nữ cư sĩ và vài ngàn chư thiên. Giữa đại chúng ấy, Thế Tôn chói sáng vượt bậc về ngoại hình và phong thái. Vậy ta nói lên kệ ngôn tán thán thích hợp trước sự hiện diện của Thế Tôn".

Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ, bhagavā, paṭibhāti maṃ, sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca.

Lúc ấy Tôn giả Vaṅgīsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch rằng:

--Bạch Thế Tôn, cảm khái khởi lên trong tâm con. Bạch Thiện Thệ, cảm khái khởi lên trong tâm con

Đức Thế Tôn nói:

-- Này Vaṅgīsa, hãy đọc lên cảm khái ấy.

Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāya gāthāya abhitthavi –

‘‘Cando yathā vigatavalāhake nabhe,

Virocati vigatamalova bhāṇumā;

Evampi aṅgīrasa tvaṃ mahāmuni,

Atirocasi yasasā sabbaloka’’nti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa nói lên kệ ngôn tán thán thích hợp với sự hiện diện của Đức Thế Tôn:

“Như mặt trăng giữa bầu trời trong

Như thái dương không gì che khuất

Ngài cũng vậy, Aṅgīrasa!

Đại Sĩ chói sáng cả trần gian.

‘‘Cando yathā vigatavalāhake nabhe = như mặt trăng giữa bầu trời không mây

Virocati vigatamalova bhāṇumā = như vầng dương không gì che khuất

Evampi aṅgīrasa tvaṃ mahāmuni = Ôi Đấng Aṅgīrasa!, bậc Đại Sĩ, Ngài cũng thế

Atirocasi yasasā sabbaloka’’nti = Sự quang huy chói sáng cả thế gian.

Campā ngày nay được gọi là Champapur với tên gọi hành chánh là Bhagalpur, Bihar.

Chữ yasa thường khi được dịch là danh xưng nhưng ở đây nói về phong thái cao quý. Đức Phật không phải chỉ có những đại trượng phu tướng mà dáng đi đứng, nhìn ngó, nói năng … đều mang cốt cách phi phàm của một vị Chánh Đẳng Chánh Gíác.

Aṅgīrasa có nghĩa là “bậc cao cả” trong tam tạng kinh điển dùng để chỉ cho Đức Phật. Trong ngữ cảnh của kệ ngôn nầy như cách gọi tôn quý “ evampi aṅgīrasa tvaṃ mahāmuni – Ôi Đấng Aṅgīrasa!, bậc Đại Sĩ, Ngài cũng thế”

Những vần thơ hay kệ ngôn của Tôn giả Vaṅgīsa sau nầy trở thành những bài kinh được tụng đọc để xưng tán Tam Bảo trong nghi thức tụng niệm đặc biệt là tại Tích Lan và Miến Điện. Ngoài văn tài của tôn giả, giá trị của những kệ ngôn nầy còn do được đọc lên “trước sự hiện diện” của Đức Thế Tôn và được chư vị A xà lê kết tập. Một số các học giả xem phẩm Vaṅgīsa là thi phẩm xưa nhất trong văn học Phật giáo.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

11. Gaggarāsuttaṃ [Mūla]

219. Ekaṃ samayaṃ bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sattahi ca upāsakasatehi sattahi ca upāsikāsatehi anekehi ca devatāsahassehi. Tyāssudaṃ bhagavā atirocati [ativirocati (ka.)] vaṇṇena ceva yasasā ca. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sattahi ca upāsakasatehi sattahi ca upāsikāsatehi anekehi ca devatāsahassehi. Tyāssudaṃ bhagavā atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca. Yaṃnūnāhaṃ bhagavantaṃ sammukhā sāruppāya gāthāya abhitthaveyya’’nti.

Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ, bhagavā, paṭibhāti maṃ, sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāya gāthāya abhitthavi –

‘‘Cando yathā vigatavalāhake nabhe,

Virocati vigatamalova bhāṇumā;

Evampi aṅgīrasa tvaṃ mahāmuni,

Atirocasi yasasā sabbaloka’’nti.

11. Gaggarāsuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

219. Ekādasame tyāssudanti te assudaṃ. Assudanti nipātamattaṃ. Vaṇṇenāti sarīravaṇṇena.Yasasāti parivārena. Vigatamalova bhāṇumāti vigatamalo ādicco viya. Ekādasamaṃ.

Ý kiến bạn đọc