- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 7.10.2023
CẦN NÓI THÌ PHẢI NÓI RÕ
Kinh Ni Xá (Upassayasuttaṃ)
Tập II – Thiên Nhân Duyên
Chương V. Tương Ưng Kassapa (Ca-diếp) (S.ii,214)
Gặp những chuyện lôi thôi trong nhà, mà bỏ qua, thấy vậy mà dễ hơn phải nói lên điều cần nói. Nhất là, khi sự việc liên quan tới cá nhân của người có trách nhiệm lèo lái con thuyền. Tôn giả Mahākassapa, với gánh nặng dẫn đạo Tăng chúng, sau khi Đức Phật viên tịch, đã gặp trường hợp khó này, khi một vị tỳ khưu ni có lời nói xúc phạm tới Ngài. Nói ra thì như cố chấp, mà không nói, thì thiếu trách nhiệm trong sự gìn giữ sự tôn nghiêm của Tăng già. Phải có cái nhìn rộng để thấy được, Ngài đã không nói vì tự ái cá nhân mà chính do thấy cần thiết phải lên tiếng.
Kinh văn
Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā mahākassapo sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yenāyasmā mahākassapo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākassapaṃ etadavoca – ‘‘āyāma, bhante kassapa, yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkamissāmā’’ti. ‘‘Gaccha tvaṃ, āvuso ānanda, bahukicco tvaṃ bahukaraṇīyo’’ti. Dutiyampi kho āyasmā ānando āyasmantaṃ mahākassapaṃ etadavoca – ‘‘āyāma, bhante kassapa, yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkamissāmā’’ti. ‘‘Gaccha tvaṃ, āvuso ānanda, bahukicco tvaṃ bahukaraṇīyo’’ti. Tatiyampi kho āyasmā ānando āyasmantaṃ mahākassapaṃ etadavoca – ‘‘āyāma, bhante kassapa, yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkamissāmā’’ti.
Tôi được nghe như vầy,
Một thuở Tôn giả Kassapa trú ở Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), ngôi già lam của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) (dâng cúng).
Bấy giờ vào buổi sáng Tôn giả Ānanda mặc y, cầm bát và y (kép) đi đến chỗ Tôn giả Mahākassapa rồi nói:
--Thưa Tôn giả Kassapa, chúng ta hãy đi đến trú xứ của tỳ khưu ni.
-- Này Hiền giả Ānanda, hãy đi. Hiền giả là người bận rộn với nhiều trách nhiệm phải làm.
Lần thứ hai, Tôn giả Ānanda thưa với Tôn giả Mahākassapa:
--Thưa Tôn giả Kassapa, chúng ta hãy đi đến trú xứ của tỳ khưu ni.
-- Này Hiền giả Ānanda, hãy đi. Hiền giả là người bận rộn với nhiều trách nhiệm phải làm.
Lần thứ ba, Tôn giả Ānanda thưa với Tôn giả Mahākassapa:
--Thưa Tôn giả Kassapa, chúng ta hãy đi đến trú xứ của tỳ khưu ni.
-- Này Hiền giả Ānanda, hãy đi. Hiền giả là người bận rộn với nhiều trách nhiệm phải làm.
Atha kho āyasmā mahākassapo pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya āyasmatā ānandena pacchāsamaṇena yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. atha kho sambahulā bhikkhuniyo yenāyasmā mahākassapo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākassapaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. ekamantaṃ nisinnā kho tā bhikkhuniyo āyasmā mahākassapo dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi. atha kho āyasmā mahākassapo tā bhikkhuniyo dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Rồi Tôn giả Mahākassapa buổi sáng đó mặc y, cầm bát và y (kép) đi đến trú xú của chư tỳ khưu ni với Tôn giả Ānanda là pháp lữ đồng hành. Sau khi đến, ngồi trên chỗ đã chuẩn bị sẳn.
Lúc ấy nhiều tỳ khưu ni đến đảnh lễ Tôn giả Mahākassapa và ngồi một bên. Với pháp thoại giảng dạy, sách tấn, khích lệ. Tôn giả Mahākassapa khiến chư tỳ khưu ni hoan hỷ, phấn khởi. Rồi từ chỗ ngồi Ngài đứng dậy ra đi.
Atha kho thullatissā bhikkhunī anattamanā anattamanavācaṃ nicchāresi – ‘‘kiṃ pana ayyo mahākassapo, ayyassa ānandassa vedehamunino sammukhā dhammaṃ bhāsitabbaṃ maññati? Seyyathāpi nāma sūcivāṇijako sūcikārassa santike sūciṃ vikketabbaṃ maññeyya; evameva ayyo mahākassapo ayyassa ānandassa vedehamunino sammukhā dhammaṃ bhāsitabbaṃ maññatī’’ti.
Bấy giờ tỳ khưu ni Thullatissā không hoan hỷ, nói lên những lời bất mãn: "Sao Tôn giả Mahā Kassapa lại nghĩ đến thuyết pháp trước mặt Tôn giả Ānanda, bậc mâu ni đại trí? Đúng là múa rìu qua mắt thợ! như một người bán kim lại nghĩ có thể bán kim cho người làm kim”
Assosi kho āyasmā mahākassapo thullatissāya bhikkhuniyā imaṃ vācaṃ bhāsamānāya. Atha kho āyasmā mahākassapo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, āvuso ānanda, ahaṃ sūcivāṇijako, tvaṃ sūcikāro; udāhu ahaṃ sūcikāro, tvaṃ sūcivāṇijako’’ti? ‘‘Khama, bhante kassapa, bālo mātugāmo’’ti. ‘‘Āgamehi tvaṃ, āvuso ānanda, mā te saṅgho uttari upaparikkhi’’.
Tôn giả Mahākassapa nghe được lời nói này của tỳ khưu ni Thullatissā đã nói với Tôn giả Ānanda:
-- Hiền giả Ānanda, ta và hiền giả ai là người làm kim, ai là người bán kim?
--Thưa Tôn giả Kassapa, hãy niệm tình. Đó là người nữ thiếu hiểu biết.
-- Hiền giả Ānanda, hãy nói rõ để Tăng chúng không truy cứu thêm về điều này. Hiền giả Ānanda, Hiền giả nghĩ thế nào?
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, āvuso ānanda, api nu tvaṃ bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhāmi vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi. Ānandopi, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhati vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatī’’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
-- Có phải trước mặt Thế Tôn giữa chúng Tăng, Hiền giả được Thế Tôn xác chứng như sau: "Này chư Tỳ khưu, tùy theo ý muốn, Ta ly dục, ly bất thiện pháp - thể nhập và an trú sơ thiền - một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm, có tứ. Này chư Tỳ khưu, Ānanda cũng có thể tùy theo ý muốn, ly dục, ly bất thiện pháp - thể nhập và an trú sơ thiền - một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm, có tứ?...
-- Thưa Tôn giả, không có vậy.
‘‘Ahaṃ kho, āvuso, bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhāmi vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi. Kassapopi, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhati vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi...pe... paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatī’ti...pe.... (Navannaṃ anupubbavihārasamāpattīnaṃ pañcannañca abhiññānaṃ evaṃ vitthāro veditabbo.)
-- Có phải trước mặt Thế Tôn giữa chúng Tăng, Hiền giả được Thế Tôn xác chứng như sau: Này chư Tỳ khưu, tùy theo ý muốn, Ta diệt tầm và tứ - thể nhập và an trú nhị thiền- một trạng thái nội tỉnh nhất tâm, không tầm, không tứ, chính là hỷ lạc do định sanh.Này chư Tỳ khưu, Ānanda cũng có thể tùy theo ý muốn, diệt tầm và tứ - thể nhập và an trú nhị thiền- một trạng thái nội tỉnh nhất tâm, không tầm, không tứ, chính là hỷ lạc do định sanh?”.
-- Thưa Tôn giả, không có vậy.
(câu chuyện tiếp tục với những câu hỏi đáp về chín thiền chứng và năm thắng trí)
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, āvuso ānanda, api nu tvaṃ bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmi. Ānandopi, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
-- Thưa Tôn giả, không có vậy.
‘‘Ahaṃ kho, āvuso, bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmi. Kassapopi, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’’ti.
‘‘Sattaratanaṃ vā, āvuso, nāgaṃ aḍḍhaṭṭhamaratanaṃ vā tālapattikāya chādetabbaṃ maññeyya, yo me cha abhiññā chādetabbaṃ maññeyyā’’ti.
Cavittha ca pana thullatissā bhikkhunī brahmacariyamhāti.
-- Chính ta, này Hiền giả, trước mặt Thế Tôn giữa chúng Tăng được Thế Tôn xác chứng như sau: Này chư Tỳ khưu, với sự đoạn tận lậu hoặc, tự mình chứng đạt vô lậu giải thoát ngay trong hiện tại, ta thể nhập và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này chư Tỳ khưu, Kassapa cũng với sự đoạn tận lậu hoặc, tự mình chứng đạt vô lậu giải thoát ngay trong hiện tại, ta thể nhập và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này Hiền giả, ai nghĩ rằng có thể che kín sáu thắng trí của ta được, thì không khác gì họ nghĩ rằng có thể lấy một lá cây kè mà che đậy một con voi lớn đến bảy hay tám khuỷ tay rưởi bề cao.
Tỳ khưu ni Thullatissā đã từ bỏ đời sống tu hành.
Chú Thích
Theo Sớ giải thì giai thoại này xảy ra sau khi Đức Thế Tôn viên tịch. Trong đối thoại giữa bậc trưởng lão thì sử dụng từ bhante (tôn giả) và āvuso (hiền giả) theo huấn ngôn của Đức Phật trước khi viên tịch. Trước đó chư tỳ khưu thường gọi nhau là āvuso (hiền giả) chứ không phân biệt cách gọi riêng vị lớn đối với vị nhỏ hay vị nhỏ đối với vị lớn.
Sớ giải ghi rằng Tôn giả Ānanda thỉnh cầu Tôn giả Mahākassapa thuyết pháp cho chư tỳ khưu ni giống như từng thỉnh Đức Phật thuyết pháp cho ni chúng trước kia. Lúc ấy Tôn giả Mahākassapa là bậc cao đồ có thể thay Đức Phật (buddhapaṭibhāga sāvaka ).
Câu nói của Ngài Mahākassapa: “Này Hiền giả Ānanda, hãy đi. Hiền giả là người bận rộn với nhiều trách nhiệm phải làm” theo Sớ giải thì Tôn giả Ānanda nên tạm thời dành thì giờ an ủi, sách tấn tứ chúng, những người đang buồn khổ trước sự viên tịch của Đức Phật.
Chữ pacchāsamaṇena được dịch là “sa môn tuỳ tùng”. Trong bản dịch này dịch là “pháp lữ đồng hành” liên quan tới quy định là khi một tỳ khưu được mời thỉnh hay do chỉ định đến trú xứ của ni chúng thuyết pháp thì cần có một tỳ khưu khác cùng đi.
Tên tỳ khưu ni Thullatissā có nghĩa đên là “Tissā Béo Phệ”
Tỳ khưu ni Thullatissā gọi Tôn giả Ānanda là vedehimuni, từ này có hai nghĩa. Thứ nhất là bậc mâu ni đại trí hay tu sĩ kiến văn quảng bác (paṇḍitamuni). Nghĩa thứ hai là bậc mâu ni xuất thân từ dòng họ danh giá Vedeha (Vedeharaṭṭhe jātattā Vedehiyā putto). Vì mẫu thân của Tôn giả Ānanda đến từ Videhi. Cũng có thể dịch là “người con ưu tú của dòng Vedeha”, một cách nói ca tụng cao độ.
Câu “Như một người bán kim lại nghĩ có thể bán kim cho người làm kim (seyyathāpi nāma sūcivāṇijako sūcikārassa santike sūciṃ vikketabbaṃ maññeyya) là thành ngữ mang tính khinh miệt nên ở đây dịch thêm bằng thành ngữ tiếng Việt “múa rìu qua mắt thợ” để cách hành văn hợp cảnh. (cũng như thành ngữ trong tiếng Anh: teach fish to swim - dạy cá bơi lội)
Câu nói của Tôn giả Ānanda: “Thưa Tôn giả Kassapa, hãy niệm tình. Đó là người nữ thiếu hiểu biết (Khamatha bhante Kassapa bālo mātugāmo) trong bản dịch của HT Thích Minh Châu: “Hãy kham nhẫn, thưa Tôn giả Kassapa, ngu si là đàn bà”. Là cách dịch sát với văn khí mạnh. Tuy vậy có thể tạo nên cách nhìn kỳ thị giới tính “quơ đũa cả nắm”. Trong một số kinh văn khác có nói về một đặc tính của nữ giới là nghiêng nặng về thương ghét (thiên vị) cá nhân trong cách ứng xử hơn là với cái nhìn đại thể. Đây là điểm tế nhị. Dù sao cũng nên ghi nhận là bản dịch của Hoà thượng Minh Châu ở câu này dịch sát với ngữ pháp của nguyên văn hơn.
Câu nói: “Hiền giả Ānanda, hãy nói rõ để Tăng chúng không truy cứu thêm về điều này. (Āgamehi tvaṃ, āvuso ānanda, mā te saṅgho uttari upaparikkhi)” theo Sớ giải thì Tôn giả Mahākassapa muốn Tôn giả Ānanda không bị Tăng chúng trách cứ vì để sự việc lôi thôi xảy ra mà không nghiêm huấn những tỳ khưu ni mạo phạm vị trưởng lão như người thay thế Đức Phật. Nói cách khác sự việc ảnh hưởng chung đến Tăng chúng không thể bỏ qua là xong chuyện.
Chữ sattahatthappamāṇa (bảy khuỷ tay) nghĩa đen tính từ cù chỏ tới đầu ngón tay giữa là đơn vị đo lường.
Chữ abhiññā hay thắng trí ở đây theo Sớ Giải chỉ cho lục thông và tam minh. Đây là trường hợp rất hiếm hoi trong Kinh Tạng vì thông thường chữ này chỉ riêng cho lục thông.
Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch
10. Upassayasuttaṃ
153. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā mahākassapo sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yenāyasmā mahākassapo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākassapaṃ etadavoca – ‘‘āyāma, bhante kassapa, yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkamissāmā’’ti. ‘‘Gaccha tvaṃ, āvuso ānanda, bahukicco tvaṃ bahukaraṇīyo’’ti. Dutiyampi kho āyasmā ānando āyasmantaṃ mahākassapaṃ etadavoca – ‘‘āyāma, bhante kassapa, yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkamissāmā’’ti. ‘‘Gaccha tvaṃ, āvuso ānanda, bahukicco tvaṃ bahukaraṇīyo’’ti. Tatiyampi kho āyasmā ānando āyasmantaṃ mahākassapaṃ etadavoca – ‘‘āyāma, bhante kassapa, yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkamissāmā’’ti.
Atha kho āyasmā mahākassapo pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya āyasmatā ānandena pacchāsamaṇena yena aññataro bhikkhunupassayo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho sambahulā bhikkhuniyo yenāyasmā mahākassapo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākassapaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho tā bhikkhuniyo āyasmā mahākassapo dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi. Atha kho āyasmā mahākassapo tā bhikkhuniyo dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Atha kho thullatissā bhikkhunī anattamanā anattamanavācaṃ nicchāresi – ‘‘kiṃ pana ayyo mahākassapo, ayyassa ānandassa vedehamunino sammukhā dhammaṃ bhāsitabbaṃ maññati? Seyyathāpi nāma sūcivāṇijako sūcikārassa santike sūciṃ vikketabbaṃ maññeyya; evameva ayyo mahākassapo ayyassa ānandassa vedehamunino sammukhā dhammaṃ bhāsitabbaṃ maññatī’’ti.
Assosi kho āyasmā mahākassapo thullatissāya bhikkhuniyā imaṃ vācaṃ bhāsamānāya. Atha kho āyasmā mahākassapo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, āvuso ānanda, ahaṃ sūcivāṇijako, tvaṃ sūcikāro; udāhu ahaṃ sūcikāro, tvaṃ sūcivāṇijako’’ti? ‘‘Khama, bhante kassapa, bālo mātugāmo’’ti. ‘‘Āgamehi tvaṃ, āvuso ānanda, mā te saṅgho uttari upaparikkhi’’.
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, āvuso ānanda, api nu tvaṃ bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhāmi vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi. Ānandopi, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhati vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatī’’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘Ahaṃ kho, āvuso, bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhāmi vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi. Kassapopi, bhikkhave, yāvadeva ākaṅkhati vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi...pe... paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatī’ti...pe.... (Navannaṃ anupubbavihārasamāpattīnaṃ pañcannañca abhiññānaṃ evaṃ vitthāro veditabbo.)
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, āvuso ānanda, api nu tvaṃ bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmi. Ānandopi, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘Ahaṃ kho, āvuso, bhagavato sammukhā bhikkhusaṅghe upanīto – ‘ahaṃ, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmi. Kassapopi, bhikkhave, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’’ti.
‘‘Sattaratanaṃ vā, āvuso, nāgaṃ aḍḍhaṭṭhamaratanaṃ vā tālapattikāya chādetabbaṃ maññeyya, yo me cha abhiññā chādetabbaṃ maññeyyā’’ti.
Cavittha ca pana thullatissā bhikkhunī brahmacariyamhāti. Dasamaṃ.
10. Upassayasuttavaṇṇanā
153. Dasame āyāma, bhanteti kasmā bhikkhunīupassayagamanaṃ yācati? Na lābhasakkārahetu, kammaṭṭhānatthikā panettha bhikkhuniyo atthi, tā ussukkāpetvā kammaṭṭhānaṃ kathāpessāmīti yācati. Nanu ca so sayampi tepiṭako bahussuto, kiṃ sayaṃ kathetuṃ na sakkotīti? No na sakkoti. Buddhapaṭibhāgassa pana sāvakassa kathaṃ saddhātabbaṃ maññissantīti yācati. Bahukicco tvaṃ bahukaraṇīyoti kiṃ thero navakammādipasuto, yena naṃ evamāhāti? No, satthari pana parinibbute catasso parisā ānandattheraṃ upasaṅkamitvā, ‘‘bhante, idāni kassa pattacīvaraṃ gahetvā caratha, kassa pariveṇaṃ sammajjatha, kassa mukhodakaṃ dethā’’ti rodanti paridevanti. Thero ‘‘aniccā saṅkhārā, vuddhasarīrepi nillajjova maccurājā pahari. Esā saṅkhārānaṃ dhammatā, mā socittha, mā paridevitthā’’ti parisaṃ saññāpeti. Idamassa bahukiccaṃ. Taṃ sandhāya thero evamāha. Sandassesīti paṭipattiguṇaṃ dassesi. Samādapesīti gaṇhāpesi. Samuttejesīti samussāhesi. Sampahaṃsesīti paṭiladdhaguṇena modāpesi.
Thullatissāti sarīrena thūlā, nāmena tissā. Vedehamuninoti paṇḍitamunino. Paṇḍito hi ñāṇasaṅkhātena vedena īhati sabbakiccāni karoti, tasmā ‘‘vedeho’’ti vuccati. Vedeho ca so muni cāti, vedehamuni. Dhammaṃ bhāsitabbaṃ maññatīti tipiṭakadharassa dhammabhaṇḍāgārikassa sammukhe sayaṃ araññavāsī paṃsukūliko samāno ‘‘dhammakathiko aha’’nti dhammaṃ bhāsitabbaṃ maññati. Idaṃ kiṃ pana, kathaṃ panāti? Avajānamānā bhaṇati. Assosīti aññena āgantvā ārocitavasena assosi. Āgamehi tvaṃ, āvusoti tiṭṭha tvaṃ, āvuso. Mā te saṅgho uttari upaparikkhīti mā bhikkhusaṅgho atirekaokāse taṃ upaparikkhīti. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘ānandena buddhapaṭibhāgo sāvako vārito, ekā bhikkhunī na vāritā, tāya saddhiṃ santhavo vā sineho vā bhavissatī’’ti mā taṃ saṅgho evaṃ amaññīti.
Idāni attano buddhapaṭibhāgabhāvaṃ dīpento taṃ kiṃ maññasi, āvusotiādimāha? Sattaratananti sattahatthappamāṇaṃ. Nāganti hatthiṃ. Aḍḍhaṭṭharatanaṃ vāti aḍḍharatanena ūnaaṭṭharatanaṃ, purimapādato paṭṭhāya yāva kumbhā vidatthādhikasattahatthubbedhanti attho. Tālapattikāyāti taruṇatālapaṇṇena. Cavitthāti cutā, na matā vā naṭṭhā vā, buddhapaṭibhāgassa pana sāvakassa upavādaṃ vatvā mahākassapatthere chahi abhiññāhi sīhanādaṃ nadante tassā kāsāvāni kaṇṭakasākhā viya kacchusākhā viya ca sarīraṃ khādituṃ āraddhāni, tāni hāretvā setakāni nivatthakkhaṇeyevassā cittassādo udapādīti. Dasamaṃ.