Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÁI NHÌN KHÁCH QUAN ĐỐI VỚI THỰC TẠI - Kinh Tìm Kiếm Vị Ngọt I và II  (paṭhamāssādapariyesanasuttaṃ), (dutiyāssādapariyesanasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CÁI NHÌN KHÁCH QUAN ĐỐI VỚI THỰC TẠI - Kinh Tìm Kiếm Vị Ngọt I và II (paṭhamāssādapariyesanasuttaṃ), (dutiyāssādapariyesanasuttaṃ)

Chủ nhật, 05/01/2025, 08:54 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bāi học ngāy 21.12.2024

CÁI NHÌN KHÁCH QUAN ĐỐI VỚI THỰC TẠI

Kinh Tìm Kiếm Vị Ngọt I và II

(paṭhamāssādapariyesanasuttaṃ), (dutiyāssādapariyesanasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Song Đối (SN.35.15&16)

Cuộc sống thường được nhìn qua hai thái độ cực đoan là lạc quan và bi quan. Người lạc quan thường không muốn thấy mặt trái phiền luỵ. Người bi quan không nhận ra mặt tích cực ngọt ngào. Tệ hại hơn là sự lẩn quẩn trong hành trình, khi không thấy được lối thoát cho những bế tắc. Như một người nghiện ngập ma tuý không thấy được hệ luỵ mà cũng không nhận ra cách cai nghiện, thì chỉ có lún sâu vào sự tàn phá cuộc sống. Ở trong mọi trường hợp, cái nhìn khách quan luôn luôn cần thiết để sống tỉnh táo và tạo nên thái độ thực tiễn.

Kinh văn

Kinh Tìm Kiếm Vị Ngọt I

15. “cakkhussāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. yo cakkhussa assādo tadajjhagamaṃ. yāvatā cakkhussa assādo paññāya me so sudiṭṭho. cakkhussāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. yo cakkhussa ādīnavo tadajjhagamaṃ. yāvatā cakkhussa ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. cakkhussāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. yaṃ cakkhussa nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. yāvatā cakkhussa nissaraṇaṃ, paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ. sotassāhaṃ, bhikkhave... ghānassāhaṃ, bhikkhave... jivhāyāhaṃ bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. yo jivhāya assādo tadajjhagamaṃ. yāvatā jivhāya assādo paññāya me so sudiṭṭho. jivhāyāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. yo jivhāya ādīnavo tadajjhagamaṃ. yāvatā jivhāya ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. jivhāyāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. yaṃ jivhāya nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. yāvatā jivhāya nissaraṇaṃ, paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ. manassāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. yo manassa assādo tadajjhagamaṃ. yāvatā manassa assādo paññāya me so sudiṭṭho. manassāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. yo manassa ādīnavo tadajjhagamaṃ. yāvatā manassa ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. manassāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. yaṃ manassa nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. yāvatā manassa nissaraṇaṃ, paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ.

“yāvakīvañcāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ channaṃ ajjhattikānaṃ āyatanānaṃ assādañca assādato, ādīnavañca ādīnavato, nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññāsiṃ ... pe ... paccaññāsiṃ. ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi — ‘akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’”ti. tatiyaṃ.

“Này chư Tỳ khưu, Ta đã đi tìm kiếm vị ngọt của mắt. Bất cứ vị ngọt nào của mắt ta đều trải nghiệm. Với trí tuệ, Ta sáng suốt thấy được vị ngọt của mắt.

Ta đã đi tìm kiếm sự nguy hại của mắt. Bất cứ sự nguy hại nào của mắt ta đều trải nghiệm. Với trí tuệ, Ta sáng suốt thấy được sự nguy hại của mắt.

Ta đã đi tìm kiếm sự vượt thoát của mắt. Bất cứ vượt thoát nào của mắt ta đều trải nghiệm. Với trí tuệ, Ta sáng suốt thấy được vượt thoát của mắt.

Ta đã đi tìm kiếm vị ngọt của tai…

Ta đã đi tìm kiếm vị ngọt của mũi…

Ta đã đi tìm kiếm vị ngọt của lưỡi…

Ta đã đi tìm kiếm vị ngọt của thân…

Ta đã đi tìm kiếm vị ngọt của của ý; Bất cứ vị ngọt nào của ý ta đều trải nghiệm. Với trí tuệ, Ta sáng suốt thấy được vị ngọt của ý.

Ta đã đi tìm kiếm sự nguy hại của ý. Bất cứ sự nguy hại nào của ý ta đều trải nghiệm. Với trí tuệ, Ta sáng suốt thấy được sự nguy hại của ý.

Ta đã đi tìm kiếm sự vượt thoát của ý. Bất cứ vượt thoát nào của ý ta đều trải nghiệm. Với trí tuệ, Ta sáng suốt thấy được vượt thoát của ý.

“Này chư Tỳ khưu, đối với sáu nội xứ, cho đến khi nào ta chưa liễu ngộ vị ngọt của chúng, sự nguy hiểm của chúng, sự vượt thoát đối với chúng, thì ta chưa nhận là đã giác ngô, viên thành quả vị chánh đẳng chánh giác giữa thế giới gồm chư thiên, ma vương, phạm thiên cùng với chư vị sa môn, phạm chí đương thời.

Đến khi nào ta liễu ngộ vị ngọt của chúng, sự nguy hiểm của chúng, sự vượt thoát đối với chúng thì ta tuyên bố là đã giác ngô, viên thành quả vị chánh đẳng chánh giác giữa thế giới gồm chư thiên, ma vương, phạm thiên cùng với chư vị sa môn, phạm chí đương thời.

Và sự nhận biết này khởi lên nơi ta: “Tâm giải thoát của Ta là không dao động; đây là kiếp sau cùng; sẽ không còn luân hồi sanh tử nữa”

Kinh Tìm Kiếm Vị Ngọt II

16. “rūpānāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. yo rūpānaṃ assādo tadajjhagamaṃ. yāvatā rūpānaṃ assādo paññāya me so sudiṭṭho. rūpānāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. yo rūpānaṃ ādīnavo tadajjhagamaṃ. yāvatā rūpānaṃ ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. rūpānāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. yaṃ rūpānaṃ nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. yāvatā rūpānaṃ nissaraṇaṃ, paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ. saddānāhaṃ, bhikkhave... gandhānāhaṃ, bhikkhave... rasānāhaṃ, bhikkhave... phoṭṭhabbānāhaṃ, bhikkhave... dhammānāhaṃ, bhikkhave, assādapariyesanaṃ acariṃ. yo dhammānaṃ assādo tadajjhagamaṃ. yāvatā dhammānaṃ assādo paññāya me so sudiṭṭho. dhammānāhaṃ, bhikkhave, ādīnavapariyesanaṃ acariṃ. yo dhammānaṃ ādīnavo tadajjhagamaṃ. yāvatā dhammānaṃ ādīnavo paññāya me so sudiṭṭho. dhammānāhaṃ, bhikkhave, nissaraṇapariyesanaṃ acariṃ. yaṃ dhammānaṃ nissaraṇaṃ tadajjhagamaṃ. yāvatā dhammānaṃ nissaraṇaṃ, paññāya me taṃ sudiṭṭhaṃ.

“yāvakīvañcāhaṃ, bhikkhave, imesaṃ channaṃ bāhirānaṃ āyatanānaṃ assādañca assādato, ādīnavañca ādīnavato, nissaraṇañca nissaraṇato yathābhūtaṃ nābbhaññāsiṃ ... pe ... paccaññāsiṃ. ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi — ‘akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’”ti. catutthaṃ.

Nội dung bài kinh này giống như “Kinh Tìm Kiếm Vị Ngọt I” chỉ khác là thay vì sáu nội xứ thì được thay bằng sáu ngoại xứ.

Chú Thích

Ba phương diện: vị ngọt, sự nguy hại, phương cách vượt thoát được đề cập ở rất nhiều bài kinh, đối với nhiều đối tượng nhận thức khác nhau. Sự thấu hiểu cả ba phương diện này tạo nên cái nhìn toàn diện đối với các pháp. Sự thấy biết ba phưong diện này giúp hành giả không bị vướng vấp bởi tâm trạng bi quan, lạc quan, chủ quan.

Khi Đức Phật dạy là chính Ngài đã đi tìm kiếm, trải nghiệm các pháp có thể hiểu qua hai bối cảnh của kiếp hiện tại và nhiều kiếp luân hồi. Trong Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ, Đức Phật mô tả về cuộc sống nhung lụa cao sang của một quân vương, mà Ngài đã trải qua trước khi xuất gia. Cũng trong bài kinh này, cũng đề cập đến túc mạng minh khi thành đạo, mà Ngài có thể quán chiếu những gì đã trải nghiệm trong vô số kiếp tiền thân.

Thấy biết được thế giới nội tại, thế giới ngoại tại với cả ba phương diện vị ngọt, nguy hại, phương cách vượt thoát là có được cái nhìn chân xác toàn diện. Sự thấy biết xoá tan tất cả những ảo kiến, ái chấp về thực tại của cuộc sống.

Sớ Giải

13-16. yamakavaggassa paṭhamadutiyesu ajjhattikānanti ajjhattajjhattavasena ajjhattikānaṃ. so pana nesaṃ ajjhattikabhāvo chandarāgassa adhimattabalavatāya veditabbo. manussānañhi antogharaṃ viya cha ajjhattikāyatanāni, gharūpacāraṃ viya cha bāhirāyatanāni. yathā nesaṃ puttadāradhanadhaññapuṇṇe antoghare chandarāgo adhimattabalavā hoti, tattha kassaci pavisituṃ na denti, appamattena bhājanasaddamattenāpi “kiṃ etan”ti? vattāro bhavanti. evamevaṃ chasu ajjhattikesu āyatanesu adhimattabalavachandarāgoti. iti imāya chandarāgabalavatāya tāni “ajjhattikānī”ti vuttāni. gharūpacāre pana no tathā balavā hoti, tattha carante manussepi catuppadānipi na sahasā nivārenti. kiñcāpi na nivārenti, anicchantā pana pasupacchimattampi gahituṃ na denti. iti nesaṃ tattha na adhimattabalavachandarāgo hoti. rūpādīsupi tatheva na adhimattabalavachandarāgo, tasmā tāni “bāhirānī”ti vuttāni. vitthārato pana ajjhattikabāhirakathā visuddhimagge vuttāva. sesaṃ dvīsupi suttesu heṭṭhā vuttanayameva. tathā tatiyacatutthesu.

Yamakavaggassa (Cặp Song Đôi) - Kinh Thứ Nhất và Thứ Hai

"Ajjhattikānaṃ" (thuộc nội tại) được hiểu theo nghĩa là “ajjhattajjhattavasena” (dựa trên sự nội tại trong mỗi cá nhân). Tuy nhiên, tính chất nội tại của chúng (các căn bên trong) cần được nhận biết qua sự tham ái (chandarāga), với sức mạnh vượt trội và cường độ mạnh mẽ.

Đối với con người, sáu nội xứ (chasu ajjhattikāyatanāni) giống như không gian bên trong ngôi nhà của họ. Trong khi đó, sáu ngoại xứ (cha bāhirāyatanāni) giống như khu vực xung quanh ngôi nhà. Ví dụ, khi trong nhà đầy đủ con cái, vợ chồng, của cải, lúa gạo, thì lòng tham ái (chandarāga) của họ rất mạnh mẽ, khiến họ không muốn ai xâm nhập vào. Ngay cả khi có một âm thanh nhỏ từ đồ vật, họ cũng ngay lập tức phản ứng và hỏi: "Cái gì đây?"

Tương tự, trong sáu nội xứ, lòng tham ái mạnh mẽ vượt trội (adhimattabalavachandarāga) được nhận thấy rõ ràng. Vì lý do này, chúng được gọi là "ajjhattikāni" (thuộc nội tại).

Ngoại xứ (bāhirāyatanāni), giống như khu vực bên ngoài ngôi nhà, không gây ra tham ái mạnh mẽ như vậy. Người ta có thể cho phép người khác hoặc động vật bốn chân qua lại mà không lập tức ngăn cản. Tuy nhiên, dù không ngăn cản, họ cũng không dễ dàng để ai đó lấy đi bất cứ thứ gì, ngay cả những thứ nhỏ nhặt như phân gia súc. Do đó, tham ái đối với sáu ngoại xứ không mạnh mẽ đến mức vượt trội.

Tương tự, đối với các đối tượng như sắc (rūpa) và các yếu tố khác, lòng tham ái không đạt đến mức cường độ vượt trội, vì vậy chúng được gọi là "bāhirānī" (thuộc ngoại tại). Những giải thích chi tiết hơn về nội xứ và ngoại xứ đã được trình bày trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo).

Phần còn lại trong hai bài kinh cũng được giải thích theo cách tương tự như đã trình bày trước đó. Điều này cũng áp dụng cho các bài kinh thứ ba và thứ tư trong Yamakavaggassa.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.

II. Phẩm Song Ðối

15.III. Vị Ngọt (1) (S.iv,8)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị ngọt của mắt. Có vị ngọt nào của mắt, Ta đều thực nghiệm. Vị ngọt của mắt như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của mắt. Có nguy hiểm nào của mắt, Ta đều thực nghiệm. Nguy hiểm của mắt như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ- kheo, Ta đã sống tìm cầu xuất ly của mắt. Có xuất ly nào của mắt, Ta đều thực nghiệm. Xuất ly của mắt như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

3-6) Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị ngọt của tai... của mũi... của lưỡi... của thân...

7) Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị ngọt của ý. Có vị ngọt nào của ý, Ta đều thực nghiệm. Vị ngọt của ý như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của ý. Có nguy hiểm nào của ý, Ta đều thực nghiệm. Nguy hiểm của ý như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu xuất ly của ý. Có xuất ly nào của ý, Ta đều thực nghiệm. Xuất ly của ý như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

8-9) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, đối với sáu nội xứ này, Ta chưa như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là sự xuất ly...

10) Và tri kiến này khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðời này là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".

16.IV. Vị Ngọt (2) (S.iv,9)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị ngọt của các sắc. Có vị ngọt nào của các sắc, Ta đều thực nghiệm. Vị ngọt của các sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của các sắc. Có nguy hiểm nào của các sắc, Ta đều thực nghiệm. Xuất ly của các sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

3-6) ...các tiếng... các hương... các vị... các xúc...

7) Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị ngọt của các pháp. Có vị ngọt nào của các pháp, Ta đều thực nghiệm. Vị ngọt của các pháp như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của các pháp. Có nguy hiểm nào của các pháp, Ta đều thực nghiệm. Xuất ly của pháp như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

8-9) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, đối với sáu ngoại xứ này, Ta chưa như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly...

10) Và tri kiến này khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðời này là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".

Ý kiến bạn đọc