Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || BÓNG VỐN CHẲNG LÀ HÌNH - Kinh Ānanda (Ānandasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || BÓNG VỐN CHẲNG LÀ HÌNH - Kinh Ānanda (Ānandasuttaṃ)

Thứ tư, 10/07/2024, 09:57 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 8.7.2024

BÓNG VỐN CHẲNG LÀ HÌNH

Kinh Ānanda (Ānandasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm Trưởng Lão (S,iii,83)

Cảnh giới của nhận thức thật khó phân đâu là hư, đâu là thực. Ngay cả khi nhìn vào năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức ở tự thân. Hình ở trong gương chỉ là phản ánh. Nhân diện phản ánh không phải là người thật cũng chẳng là ai khác. Đối với thánh trí thì tất cả ý niệm “Ta là” hay ngã chấp chỉ là điều không nên chấp thủ, như soi hình ở trong gương. Buông xả ngã chấp trả tâm thức về với trạng thái không dao động, một thứ tịch tịnh thật sự.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ.

Tatra kho āyasmā ānando bhikkhū āmantesi: “āvuso bhikkhave”ti.

“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ. Āyasmā ānando etadavoca:

Nhân duyên ở Sāvatthi…

Lúc bấy giờ Tôn giả Ānanda gọi chư Tỳ khưu: “Này chư Hiền giả”. Chư Tỳ khưu trả lời: “Dạ, Hiền giả”. Tôn giả Ānanda nói như sau:

“Puṇṇo nāma, āvuso, āyasmā mantāṇiputto amhākaṃ navakānaṃ sataṃ bahūpakāro hoti. So amhe iminā ovādena ovadati: ‘upādāya, āvuso ānanda, asmīti hoti, no anupādāya. Kiñca upādāya asmīti hoti, no anupādāya? Rūpaṃ upādāya asmīti hoti, no anupādāya. Vedanaṃ … saññaṃ … saṅkhāre … viññāṇaṃ upādāya asmīti hoti, no anupādāya.

—Chư Hiền giả, lúc chúng tôi mới xuất gia, Tôn giả Puñña Mantāniputta đã trợ duyên chúng tôi nhiều. Vị ấy huất thị chúng ta với lời dạy này: Này Hiền giả Ānanda, do chấp thủ, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ.

Do chấp thủ sắc, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ.

Do chấp thủ thọ, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ.

Do chấp thủ tưởng, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ.

Do chấp thủ hành, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ.

Do chấp thủ thức, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ.

Seyyathāpi, āvuso ānanda, itthī vā puriso vā daharo yuvā maṇḍanakajātiko ādāse vā parisuddhe pariyodāte acche vā udakapatte sakaṃ mukhanimittaṃ paccavekkhamāno upādāya passeyya, no anupādāya; evameva kho, āvuso ānanda, rūpaṃ upādāya asmīti hoti, no anupādāya. Vedanaṃ … saññaṃ … saṅkhāre … viññāṇaṃ upādāya asmīti hoti, no anupādāya.

Này Hiền giả Ānanda, ví như một người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi, ưa chưng diện thích nhìn diện mạo của mình trong tấm gương sạch hay thau nước trong, do duyên chấp thủ không phải không chấp thủ. Này Hiền giả Ānanda, do chấp thủ sắc, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ. Do chấp thủ thọ… Do chấp thủ tưởng… Do chấp thủ hành… Do chấp thủ thức, khởi lên (ý niệm) “Ta là”; không phải không có chấp thủ.

Taṃ kiṃ maññasi, āvuso ānanda, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’ti?

‘Aniccaṃ, āvuso’.

‘Vedanā … saññā … saṅkhārā … viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’ti?

‘Aniccaṃ, āvuso’ …pe….

Tasmātiha …pe… evaṃ passaṃ …pe… nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti.

Hiền giả Ānanda, Hiền giả nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

—Là vô thường, Hiền giả.

—Thọ … tưởng … các hành … thức là thường hay vô thường?

—Là vô thường, Hiền giả.

—Do thấy vậy … vị ấy biết ” … không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Puṇṇo nāma, āvuso, āyasmā mantāṇiputto amhākaṃ navakānaṃ sataṃ bahūpakāro hoti. So amhe iminā ovādena ovadati. Idañca pana me āyasmato puṇṇassa mantāṇiputtassa dhammadesanaṃ sutvā dhammo abhisamito”ti.

Chư Hiền giả, Tôn giả Puñña Mantāniputta, lúc chúng tôi mới xuất gia, Tôn giả Puñña Mantāniputta đã trợ duyên chúng tôi nhiều… Sau khi nghe Tôn giả Puñña Mantāniputta thuyết pháp, chúng tôi liễu ngộ chánh pháp.

 

Chú Thích

Tôn giả Puñña Mantāniputta là con của nữ bà la môn Mantāni ở Rājagaha (Vương Xá), gọi Ngài Koṇḍañña (Kiều Trần Như) là cậu ruột. Tôn giả được Đức Phật xác chứng là vị thánh đệ tử “Đệ nhất về thuyết pháp - Etadaggaṃ dhammakathikānaṃ”.

Theo Sớ Giải, thì thuật ngữ “upādāya - chấp thủ” ở đây bao gồm cả hai ý nghĩa: bám víu và tuỳ thuộc (upādāyāti āgamma ārabbha sandhāya paṭicca).

Cũng theo Sớ Giải, thì ý niệm “Ta là” ở đây bao gồm cả ái chấp, mạn chấp và kiến chấp (asmīti hotīti asmīti evaṃ pavattaṃ taṇhāmānadiṭṭhipapañcattayaṃ hoti) thay vì chỉ riêng mạn chấp như thường gặp.

Sớ giải cũng nói rằng trong dụ ngôn: “người trẻ tuổi thích soi gương, thì hình ảnh trong gương chẳng phải là mình cũng chẳng phải ai khác (tasmā na taṃ attano, na parassa, ādāsaṃ pana nissāya nibhāsarūpaṃ nāma taṃ paññāyatīti vadanti)”.

Sớ giải ghi chú là khi Tôn giả Ānanda nói “dhammo me abhisamitoti” nghĩa là chứng thánh quả nhập lưu (mayā ñāṇena catusaccadhammo abhisamāgato, sotāpannosmi jātoti kathesi).

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

1. Ānandasuttaṃ

theravaggassa paṭhame mantāṇiputtoti, mantāṇiyā nāma brāhmaṇiyā putto. upādāyāti āgamma ārabbha sandhāya paṭicca. asmīti hotīti asmīti evaṃ pavattaṃ taṇhāmānadiṭṭhipapañcattayaṃ hoti. daharoti taruṇo. yuvāti yobbanena samannāgato. maṇḍanakajātikoti maṇḍanakasabhāvo maṇḍanakasīlo. mukhanimittanti mukhapaṭibimbaṃ. tañhi parisuddhaṃ ādāsamaṇḍalaṃ paṭicca paññāyati. kiṃ pana taṃ olokayato sakamukhaṃ paññāyati, paramukhanti? yadi sakaṃ bhaveyya, parammukhaṃ hutvā paññāyeyya, atha parassa bhaveyya, vaṇṇādīhi asadisaṃ hutvā paññāyeyya. tasmā na taṃ attano, na parassa, ādāsaṃ pana nissāya nibhāsarūpaṃ nāma taṃ paññāyatīti vadanti. atha yaṃ udake paññāyati, taṃ kena kāraṇenāti? mahābhūtānaṃ visuddhatāya. dhammo me abhisamitoti mayā ñāṇena catusaccadhammo abhisamāgato, sotāpannosmi jātoti kathesi. paṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc