Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | BẢN CHẤT CỐ HỮU Kinh Duyên (Paccayasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | BẢN CHẤT CỐ HỮU Kinh Duyên (Paccayasuttaṃ)

Thứ tư, 15/02/2023, 19:37 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 15.2.2022

BẢN CHẤT CỐ HỮU

Kinh Duyên (Paccayasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương I. Tương Ưng Nhân Duyên (a) - Phẩm Dưỡng Tố (S. ii, 25)

DẪN NHẬP

Biết xác thực thì không nghi hoặc. Để biết xác thực cần chấp nhận sự thật hiển nhiên. Vạn hữu do nhân, do duyên mà sanh đó là sự thật. Cái  sanh do duyên thì thì không thể nói là độc lập, là ngẫu nhiên mà có. Cái do duyên tồn tại khi duyên không còn tự nhiên hoại diệt. Nếu là do duyên mà sanh cũng vì hết duyên mà diệt thì là giả hợp; không nên bảo là hằng hữu; cũng chẳng thể bảo là có chủ quyền. Chấp nhận được bản chất cố hữu đương nhiên thì tâm không đòi hỏi phải như thế nầy hay đừng như thế kia. Tâm như nhiên cũng là tâm an nhiên là điểm đặc thù được Chư Phật giảng dạy.

KINH VĂN

Sāvatthiyaṃ viharati...pe... ‘‘paṭiccasamuppādañca vo, bhikkhave, desessāmi paṭiccasamuppanne ca dhamme. Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –

Ngự tại Sāvatthi

-- Vậy này chư Tỳ khưu, Ta sẽ giảng cho các thầy về duyên sinh và pháp  do duyên mà sanh. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Chư Tỳ khưu trả lời Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói như sau:

‘‘Katamo ca, bhikkhave, paṭiccasamuppādo? Jātipaccayā, bhikkhave, jarāmaraṇaṃ. Uppādā vā tathāgatānaṃ anuppādā vā tathāgatānaṃ, ṭhitāva sā dhātu dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā idappaccayatā. Taṃ tathāgato abhisambujjhati abhisameti. Abhisambujjhitvā abhisametvā ācikkhati deseti paññāpeti paṭṭhapeti vivarati vibhajati uttānīkaroti. ‘Passathā’ti cāha – ‘jātipaccayā, bhikkhave, jarāmaraṇaṃ’’’.

Này chư Tỳ khưu, thế nào là duyên khởi? Do duyên sanh, già chết hiện khởi. Dù các Đấng Như Lai có xuất hiện hay không thì bản chất vẫn vậy, pháp tánh vẫn vậy, nguyên lý vẫn vậy, ắt có và đủ như vậy. Đấng Như Lai đại ngộ, liễu tri pháp ấy. Sau khi giác ngộ, Ngài giảng giải, tuyên thuyết, công bố, thiết lập, hiển thị, phân tích, làm sáng tỏ pháp ấy.  Và Ngài nói rằng: Hãy xem đây! với sanh là duyên, già chết hiện khởi.

‘‘Bhavapaccayā, bhikkhave, jāti...pe... upādānapaccayā, bhikkhave, bhavo... taṇhāpaccayā, bhikkhave, upādānaṃ... vedanāpaccayā, bhikkhave, taṇhā... phassapaccayā, bhikkhave, vedanā... saḷāyatanapaccayā, bhikkhave, phasso... nāmarūpapaccayā, bhikkhave, saḷāyatanaṃ... viññāṇapaccayā, bhikkhave, nāmarūpaṃ... saṅkhārapaccayā, bhikkhave, viññāṇaṃ... avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā uppādā vā tathāgatānaṃ anuppādā vā tathāgatānaṃ, ṭhitāva sā dhātu dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā idappaccayatā. Taṃ tathāgato abhisambujjhati abhisameti. Abhisambujjhitvā abhisametvā ācikkhati deseti paññāpeti paṭṭhapeti vivarati vibhajati uttānīkaroti. ‘Passathā’ti cāha ‘avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā’. Iti kho, bhikkhave, yā tatra tathatā avitathatā anaññathatā idappaccayatā – ayaṃ vuccati, bhikkhave, paṭiccasamuppādo.

Do duyên hữu, sanh hiện khởi …..

Do duyên thủ, hữu hiện khởi …

Do duyên ái, thủ hiện khởi ….

Do duyên thọ, ái hiện khởi….

Do duyên xúc, thọ hiện khởi ….

Do duyên lục nhập, xúc hiện khởi….

Do duyên danh sắc, lục nhập hiện khởi

Do duyên thức, danh sắc hiện khởi….

Do duyên hành, thức hiện khởi

Do duyên vô minh, hành hiện khởi. Dù các Đấng Như Lai có xuất hiện hay không thì bản chất vẫn vậy, pháp tánh vẫn vậy, nguyên lý vẫn vậy, ắt có và đủ. Đấng Như Lai đại ngộ, liễu tri pháp ấy. Sau khi giác ngộ, Ngài giảng giải, tuyên thuyết, công bố, thiết lập, hiển thị, phân tích, làm sáng tỏ pháp ấy.  Và Ngài nói rằng: Hãy xem đây! với vô minh là duyên, hành hiện khởi.

Này chư Tỳ khưu, sự thật là vậy, không thể sai chạy, không thể khác hơn, ắt có và đủ. Như vậy là duyên khởi.

‘‘Katame ca, bhikkhave, paṭiccasamuppannā dhammā? Jarāmaraṇaṃ, bhikkhave, aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ. Jāti, bhikkhave, aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Bhavo, bhikkhave, anicco saṅkhato paṭiccasamuppanno khayadhammo vayadhammo virāgadhammo nirodhadhammo. Upādānaṃ bhikkhave...pe... taṇhā, bhikkhave... vedanā, bhikkhave... phasso, bhikkhave... saḷāyatanaṃ, bhikkhave... nāmarūpaṃ, bhikkhave... viññāṇaṃ, bhikkhave... saṅkhārā, bhikkhave... avijjā, bhikkhave, aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Ime vuccanti, bhikkhave, paṭiccasamuppannā dhammā.

Thế nào là pháp sanh do duyên?

Này các Tỳ khưu, già chết là vô thường, bị tạo, tuỳ thuộc mà sanh, bị tiêu huỷ, suy tàn, tan biến, hoại diệt.

Này các Tỳ khưu, sanh là vô thường ....

Này các Tỳ khưu, hữu là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, thủ là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, ái là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, thọ là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, xúc là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, lục nhập là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, danh sắc là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, thức là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, hành là vô thường …..

Này các Tỳ khưu, vô minh là vô thường …..

Những pháp này, này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp do duyên sanh.

‘‘Yato kho, bhikkhave, ariyasāvakassa ‘ayañca paṭiccasamuppādo, ime ca paṭiccasamuppannā dhammā’ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhā honti, so vata pubbantaṃ vā paṭidhāvissati – ‘ahosiṃ nu kho ahaṃ [nu khvāhaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] atītamaddhānaṃ, nanu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ hutvā kiṃ ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhāna’nti; aparantaṃ vā upadhāvissati [apadhāvissati (ka.)] – ‘bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānaṃ, nanu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ, kiṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ, kiṃ hutvā kiṃ bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhāna’nti; etarahi vā paccuppannaṃ addhānaṃ ajjhattaṃ kathaṃkathī bhavissati – ‘ahaṃ nu khosmi, no nu khosmi, kiṃ nu khosmi, kathaṃ nu khosmi, ayaṃ nu kho satto kuto āgato, so kuhiṃ gamissatī’ti – netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Taṃ kissa hetu? Tathāhi, bhikkhave, ariyasāvakassa ayañca paṭiccasamuppādo ime ca paṭiccasamuppannā dhammā yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhā’’ti. Dasamaṃ.

Này chư Tỳ khưu, khi một thánh đệ tử thấy rõ bằng chánh trí chân thực vê duyên sinh và pháp do duyên mà sanh thì vị ấy không thể nào truy cầu quá khứ để tự vấn: Ta có hiện hữu trong quá khứ chăng? Hay không hiện hữu? Ta đã là ai? Ta như thế nào? Ta từng là thế thì đã ra sao?.

Hay vị ấy suy tư về tương lai: Ta sẽ có mặt trong tương lai? Hay sẽ không tồn tại? Ta sẽ là gì? Nếu ta là thế thì sẽ ra sao?

Hoặc vị ấy suy tư về hiện tại: Ta có hiện hữu? Hay không hiện hữu? Ta là ai? Ta như thế nào? Từ sự hiện hữu nầy sẽ đi về đâu?

Vì sao (vi ấy không tự vấn như vậy)? Này chư Tỳ khưu, vì rằng vị thánh đệ tử thấy rõ bằng chánh trí chân thực vê duyên sinh và pháp do duyên mà sanh

Chú Thích

Sanh và sinh là hai cách phát âm cùng chữ và cùng nghĩa. Nhưng trong bản dịch nầy dùng cả hai. Chữ “sanh” là cách phát âm phổ thông. Tuy vậy đặc biệt dùng chữ “duyên sinh” để dịch tù vựng paṭiccasamuppāda theo cách đọc và dịch của Ngài Tịnh Sự (Duyên Sinh và Duyên Hệ)  như một thuật ngữ.

Chữ paccaya trong Thắng Pháp Abhidhamma là một thuật ngữ chỉ cho “duyên hệ” (như 24 duyên hệ) phân biệt với paṭiccasamuppāda (duyên sinh). Trong bài kinh nầy chữ paccaya mang ý nghĩa phổ quát là “duyên” (không nên hiểu như duyên hệ theo Thắng Pháp)

Chữ idappaccayatā là một từ khó dịch và thường không được chú ý nhiều. Nói đại khái thì từ vựng nầy hàm nghĩa là “duyên trợ cá biệt” như trong cách nói “cái gì tồn tại cũng có nguyên do riêng của nó”. Không hơn không kém. Nên dùng thành ngữ của toán học “ắt có và đủ” để chuyển dịch. Thí dụ như thủ phải do duyên ái không thể khác hơn. Ngài Buddhadasa đặc biệt dùng từ vựng nầy là tên của một quyển sách để nói về bản chất riêng tự nhiên của vạn hữu mà sự hiểu biết cần chính xác. Bản dịch Hán ngữ là “y duyên tánh” không lột hết ý nghĩa của sự cá biệt như bản Anh ngữ (specific conditionality)

Câu “Uppādā vā tathāgatānaṃ anuppādā vā tathāgatānaṃ, ṭhitā va sā dhātu dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā idappaccayatā - Dù các Đấng Như Lai có xuất hiện hay không thì bản chất vẫn vậy, pháp tánh vẫn vậy, nguyên lý vẫn vậy, ắt có và đủ như vậy” cần được hiểu thận trọng từng chữ một:   sā dhātu - những nguyên tố ấy - Sớ giải chú thích là bản chất của duyên (paccayasabhāva);  ṭhitā - vẫn vậy, vẫn tồn tại;  dhammaṭṭhitatā – pháp trụ hay sự vững chắc của pháp; dhammaniyāmatā - định lý; idappaccayatā – duyên cá biệt hay “ắt có và đủ”. (Để tham khảo thêm bản Hán ngữ dùng các từ chuyển dịch tương đương là:  giới tánh, pháp trú tánh, pháp quyết định tánh, y duyên tánh).

Hai động từ Abhisambujjhati abhisameti - đại ngộ, liễu tri - chỉ cho sự quán triệt của Chư Phật đối với duyên khởi.

Ba điểm nhấn: thực chất là vậy (tathatā), không thể sai chạy (avitathatā), chẳng thể khác hơn (anaññathatā) là ba cách diễn đạt về sự thật hiển nhiên trong kinh dùng để nói về tứ diệu đế và thập nhị nhân duyên.

 Theo Sớ Giải chữ sammappaññāya – chánh trí - chỉ  cho minh sát  trong đạo tuệ (savipassanāya maggapaññāya) (20 tâm đạo siêu thế).

Hai từ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ  trong câu aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ thường được dịch là ly tham, tịch tịnh là sự sai lầm lớn cần làm sáng tỏ. Ly tham và tịch tịnh chỉ cho niết bàn. Ở đây nói về hữu vi pháp có nghĩa là “tan biến không thể nắm bắt” và đoạn diệt chỉ cho sự chung cuộc tự nhiên của sanh và lão hoá.

16 nghi hoặc đối với quá khứ, tương lai, hiện tại được mô tả trong Trung Bộ (MN I 8,4-15) liên hệ tới ngã chấp và đi với hai tà kiến là thường kiến hay đoạn kiến. Một người với sự hiểu biết chắc thật về duyên khởi sẽ không có ngã chấp, và do vậy, không rơi vào những nghi hoặc nầy.

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

10. Paccayasuttaṃ

20. Sāvatthiyaṃ viharati...pe... ‘‘paṭiccasamuppādañca vo, bhikkhave, desessāmi paṭiccasamuppanne ca dhamme. Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –

‘‘Katamo ca, bhikkhave, paṭiccasamuppādo? Jātipaccayā, bhikkhave, jarāmaraṇaṃ. Uppādā vā tathāgatānaṃ anuppādā vā tathāgatānaṃ, ṭhitāva sā dhātu dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā idappaccayatā. Taṃ tathāgato abhisambujjhati abhisameti. Abhisambujjhitvā abhisametvā ācikkhati deseti paññāpeti paṭṭhapeti vivarati vibhajati uttānīkaroti. ‘Passathā’ti cāha – ‘jātipaccayā, bhikkhave, jarāmaraṇaṃ’’’.

‘‘Bhavapaccayā, bhikkhave, jāti...pe... upādānapaccayā, bhikkhave, bhavo... taṇhāpaccayā, bhikkhave, upādānaṃ... vedanāpaccayā, bhikkhave, taṇhā... phassapaccayā, bhikkhave, vedanā... saḷāyatanapaccayā, bhikkhave, phasso... nāmarūpapaccayā, bhikkhave, saḷāyatanaṃ... viññāṇapaccayā, bhikkhave, nāmarūpaṃ... saṅkhārapaccayā, bhikkhave, viññāṇaṃ... avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā uppādā vā tathāgatānaṃ anuppādā vā tathāgatānaṃ, ṭhitāva sā dhātu dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā idappaccayatā. Taṃ tathāgato abhisambujjhati abhisameti. Abhisambujjhitvā abhisametvā ācikkhati deseti paññāpeti paṭṭhapeti vivarati vibhajati uttānīkaroti. ‘Passathā’ti cāha ‘avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā’. Iti kho, bhikkhave, yā tatra tathatā avitathatā anaññathatā idappaccayatā – ayaṃ vuccati, bhikkhave, paṭiccasamuppādo.

‘‘Katame ca, bhikkhave, paṭiccasamuppannā dhammā? Jarāmaraṇaṃ, bhikkhave, aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ. Jāti, bhikkhave, aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Bhavo, bhikkhave, anicco saṅkhato paṭiccasamuppanno khayadhammo vayadhammo virāgadhammo nirodhadhammo. Upādānaṃ bhikkhave...pe... taṇhā, bhikkhave... vedanā, bhikkhave... phasso, bhikkhave... saḷāyatanaṃ, bhikkhave... nāmarūpaṃ, bhikkhave... viññāṇaṃ, bhikkhave... saṅkhārā, bhikkhave... avijjā, bhikkhave, aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Ime vuccanti, bhikkhave, paṭiccasamuppannā dhammā.

‘‘Yato kho, bhikkhave, ariyasāvakassa ‘ayañca paṭiccasamuppādo, ime ca paṭiccasamuppannā dhammā’ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhā honti, so vata pubbantaṃ vā paṭidhāvissati – ‘ahosiṃ nu kho ahaṃ [nu khvāhaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] atītamaddhānaṃ, nanu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ hutvā kiṃ ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhāna’nti; aparantaṃ vā upadhāvissati [apadhāvissati (ka.)] – ‘bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānaṃ, nanu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ, kiṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ, kiṃ hutvā kiṃ bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhāna’nti; etarahi vā paccuppannaṃ addhānaṃ ajjhattaṃ kathaṃkathī bhavissati – ‘ahaṃ nu khosmi, no nu khosmi, kiṃ nu khosmi, kathaṃ nu khosmi, ayaṃ nu kho satto kuto āgato, so kuhiṃ gamissatī’ti – netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Taṃ kissa hetu? Tathāhi, bhikkhave, ariyasāvakassa ayañca paṭiccasamuppādo ime ca paṭiccasamuppannā dhammā yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhā’’ti. Dasamaṃ.

10. Paccayasuttavaṇṇanā

20. Dasame paṭiccasamuppādañca vo bhikkhave, desessāmi paṭiccasamuppanne ca dhammeti satthā imasmiṃ sutte paccaye ca paccayanibbatte ca sabhāvadhamme desessāmīti ubhayaṃ ārabhi. Uppādā vā tathāgatānanti tathāgatānaṃ uppādepi, buddhesu uppannesu anuppannesupi jātipaccayā jarāmaraṇaṃ, jātiyeva jarāmaraṇassa paccayo. Ṭhitāva sā dhātūti ṭhitova so paccayasabhāvo, na kadāci jāti jarāmaraṇassa paccayo na hoti. Dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatāti imehipi dvīhi paccayameva katheti. Paccayena hi paccayuppannā dhammā tiṭṭhanti, tasmā paccayova ‘‘dhammaṭṭhitatā’’ti vuccati. Paccayo dhamme niyameti, tasmā ‘‘dhammaniyāmatā’’ti vuccati. Idappaccayatāti imesaṃ jarāmaraṇādīnaṃ paccayā idappaccayā, idappaccayāva idappaccayatā. Tanti taṃ paccayaṃ. Abhisambujjhatīti ñāṇena abhisambujjhati. Abhisametīti ñāṇena abhisamāgacchati. Ācikkhatīti katheti. Desetīti dasseti. Paññāpetīti jānāpeti. Paṭṭhapetīti ñāṇamukhe ṭhapeti. Vivaratīti vivaritvā dasseti. Vibhajatīti vibhāgato dasseti. Uttānīkarotīti pākaṭaṃ karoti. Passathāti cāhāti passatha iti ca vadati. Kinti? Jātipaccayā, bhikkhave, jarāmaraṇantiādi.

Iti kho, bhikkhaveti evaṃ kho, bhikkhave. Yā tatrāti yā tesu ‘‘jātipaccayā jarāmaraṇa’’ntiādīsu. Tathatātiādīni paccayākārasseva vevacanāni. So tehi tehi paccayehi anūnādhikeheva tassa tassa dhammassa sambhavato tathatāti, sāmaggiṃ upagatesu paccayesu muhuttampi tato nibbattānaṃ dhammānaṃ asambhavābhāvato avitathatāti, aññadhammapaccayehi aññadhammānuppattito anaññathatāti, jarāmaraṇādīnaṃ paccayato vā paccayasamūhato vā idappaccayatāti vutto. Tatrāyaṃ vacanattho – imesaṃ paccayā idappaccayā, idappaccayā eva idappaccayatā, idappaccayānaṃ vā samūho idappaccayatā. Lakkhaṇaṃ panettha saddasatthato veditabbaṃ.

Aniccanti hutvā abhāvaṭṭhena aniccaṃ. Ettha ca aniccanti na jarāmaraṇaṃ aniccaṃ, aniccasabhāvānaṃ pana khandhānaṃ jarāmaraṇattā aniccaṃ nāma jātaṃ. Saṅkhatādīsupi eseva nayo. Ettha ca saṅkhatanti paccayehi samāgantvā kataṃ. Paṭiccasamuppannanti paccaye nissāya uppannaṃ. Khayadhammanti khayasabhāvaṃ. Vayadhammanti vigacchanakasabhāvaṃ. Virāgadhammanti virajjanakasabhāvaṃ. Nirodhadhammanti nirujjhanakasabhāvaṃ. Jātiyāpi vuttanayeneva aniccatā veditabbā. Janakapaccayānaṃ vā kiccānubhāvakkhaṇe diṭṭhattā ekena pariyāyenettha aniccātiādīni yujjantiyeva. Bhavādayo aniccādisabhāvāyeva.

Sammappaññāyāti savipassanāya maggapaññāya. Pubbantanti purimaṃ atītanti attho. Ahosiṃ nu khotiādīsu ‘‘ahosiṃ nu kho nanu kho’’ti sassatākārañca adhiccasamuppattiākārañca nissāya atīte attano vijjamānatañca avijjamānatañca kaṅkhati. Kiṃ kāraṇanti na vattabbaṃ, ummattako viya bālaputhujjano yathā vā tathā vā pavattati. Kiṃ nu kho ahosinti jātiliṅgupapattiyo nissāya ‘‘khattiyo nu kho ahosiṃ, brāhmaṇavessasuddagahaṭṭhapabbajitadevamanussānaṃ aññataro’’ti kaṅkhati. Kathaṃ nu khoti saṇṭhānākāraṃ nissāya ‘‘dīgho nu kho ahosiṃ rassaodātakaṇhapamāṇikaappamāṇikādīnaṃ aññataro’’ti kaṅkhati. Keci pana ‘‘issaranimmānādīni nissāya ‘kena nu kho kāraṇena ahosi’nti hetuto kaṅkhatī’’ti vadanti. Kiṃ hutvā kiṃ ahosinti jātiādīni nissāya ‘‘khattiyo hutvā nu kho brāhmaṇo ahosiṃ...pe... devo hutvā manusso’’ti attano paramparaṃ kaṅkhati. Sabbattheva pana addhānanti kālādhivacanametaṃ. Aparantanti anāgataṃ antaṃ. Bhavissāmi nu kho nanu khoti sassatākārañca ucchedākārañca nissāya anāgate attano vijjamānatañca avijjamānatañca kaṅkhati. Sesamettha vuttanayameva.

Etarahi vā paccuppannaṃ addhānanti idāni vā paṭisandhimādiṃ katvā cutipariyantaṃ sabbampi vattamānakālaṃ gahetvā. Ajjhattaṃ kathaṃkathī bhavissatīti attano khandhesu vicikicchī bhavissati. Ahaṃ nu khosmīti attano atthibhāvaṃ kaṅkhati. Yuttaṃ panetanti? Yuttaṃ ayuttanti kā ettha cintā. Apicettha idaṃ vatthumpi udāharanti – cūḷamātāya kira putto muṇḍo, mahāmātāya putto amuṇḍo, taṃ puttaṃ muṇḍesuṃ, so uṭṭhāya ‘‘ahaṃ nu kho cūḷamātāya putto’’ti cintesi. Evaṃ ahaṃ nu khosmīti kaṅkhā hoti. No nu khosmīti attano natthibhāvaṃ kaṅkhati. Tatrāpi idaṃ vatthu – eko kira macche gaṇhanto udake ciraṭṭhānena sītibhūtaṃ attano ūruṃ macchoti cintetvā pahari. Aparo susānapasse khettaṃ rakkhanto bhīto saṅkuṭito sayi, so paṭibujjhitvā attano jaṇṇukāni dve yakkhāti cintetvā pahari. Evaṃ no nu khosmīti kaṅkhati.

Kiṃ nu khosmīti khattiyova samāno attano khattiyabhāvaṃ kaṅkhati. Eseva nayo sesesupi. Devo pana samāno devabhāvaṃ ajānanto nāma natthi, sopi pana ‘‘ahaṃ rūpī nu kho arūpī nu kho’’tiādinā nayena kaṅkhati. Khattiyādayo kasmā na jānantīti ce? Apaccakkhā tesaṃ tattha tattha kule uppatti. Gahaṭṭhāpi ca potthalikādayo pabbajitasaññino, pabbajitāpi ‘‘kuppaṃ nu kho me kamma’’ntiādinā nayena gahaṭṭhasaññino. Manussāpi ca rājāno viya attani devasaññino honti. Kathaṃ nu khosmīti vuttanayameva. Kevalañhettha abbhantare jīvo nāma atthīti gahetvā tassa saṇṭhānākāraṃ nissāya ‘‘dīgho nu khosmi rassacaturassachaḷaṃsaaṭṭhaṃsasoḷasaṃsādīnaṃ aññatarappakāro’’ti kaṅkhanto kathaṃ nu khosmīti? Kaṅkhatīti veditabbo. Sarīrasaṇṭhānaṃ pana paccuppannaṃ ajānanto nāma natthi. Kuto āgato so kuhiṃ gāmī bhavissatīti attabhāvassa āgatigatiṭṭhānaṃ kaṅkhanto evaṃ kaṅkhati. Ariyasāvakassāti idha sotāpanno adhippeto, itarepi pana tayo avāritāyevāti. Dasamaṃ.

Ý kiến bạn đọc