Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - BẬC CHÍ TÔN GIỮA CÕI ĐỜI - Kinh Sanaṅkumāra (Sanaṅkumārasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - BẬC CHÍ TÔN GIỮA CÕI ĐỜI - Kinh Sanaṅkumāra (Sanaṅkumārasuttaṃ)

Thứ ba, 31/05/2022, 18:03 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 31.5.2022


BẬC CHÍ TÔN GIỮA CÕI ĐỜI

Kinh Sanaṅkumāra (Sanaṅkumārasuttaṃ)

CHƯƠNG VI. TƯƠNG ƯNG PHẠM THIÊN – PHẨM THỨ HAI (S. i, 153)

Phàm nói đến sự cao cả, người ta thường nghĩ tới quyền năng và địa vị. Trong cảnh giới chân thiện thì một bậc viên mãn minh hạnh là bậc tối tôn. Sự hiểu biết và đời sống thực tế thường chênh lệch. Ngay trong cuộc sống hằng ngày không có mấy ai đạt đến chỗ “tri hành hợp nhất”. Người ta có thể hiểu và suy tư về những điều rất cao siêu nhưng để sống như cái mình biết thì không dễ dàng. Đức Phật là một bậc hiếm hoi giữa cuộc đời nầy mà trí lực và bản hạnh tương đồng. Ngài liễu tri những gì đang làm và có thể làm tất cả những gì Ngài liễu tri. Chỉ có một đấng toàn giác mới là bậc Minh Hạnh Túc.

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati sappinītīre. Atha kho brahmā sanaṅkumāro abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ sappinītīraṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Tôi được nghe như vầy

Thuở ấy Đức Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), bên bờ sông Sappinī.

Khi đêm đã gần tàn. Phạm thiên Sanaṅkumāra, với dung sắc thù diệu, toả sáng toàn vùng bên bờ sông Sappinī, đi đến Thế Tôn.

Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sanaṅkumāro bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino;

Vijjācaraṇasampanno, so seṭṭho devamānuse’’ti.

Sau khi đến, Phạm thiên Sanaṅkumāra đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên nói lên kệ ngôn:

Sát đế lỵ tối thượng

Với người nặng giai cấp

Nhưng bậc Minh Hạnh Túc

Tối thượng giữa nhơn, thiên.

Idamavoca brahmā sanaṅkumāro. Samanuñño satthā ahosi. Atha kho brahmā sanaṅkumāro ‘‘samanuñño me satthā’’ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti.

Phạm thiên Sanaṅkumāra nói như vậy, và bậc Ðạo Sư chuẩn thuận.

Khi Phạm thiên Sanaṅkumāra biết được: "Thế Tôn đã chuẩn thuận", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên phải hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.

‘‘Khattiyo seṭṭho janetasmiṃ = sát đế lỵ tối thắng trong xã hội

ye gottapaṭisārino = đối với người mang quan niệm giai cấp

Vijjācaraṇasampanno = Bậc Minh Hạnh Túc

so seṭṭho devamānuse’’ti = Tối thượng giữa nhân thiên

Sát đế lỵ – khattiya – là giai cấp chiến sĩ hay vua chúa. Đây là thành phần thống trị trong xã hội Ấn.

Bậc Minh Hạnh Túc – Vijjācaraṇasampanno – có thể hiểu theo hai cách: danh từ riêng chỉ cho một trong chín hồng danh của Đức Phật; danh từ chung chỉ cho bậc thành tựu viên mãn tuệ giác và chánh hạnh.

Theo Sớ Giải, Phạm thiên Sanaṅkumāra – hay Thường Đồng Tử Phạm Thiên – có tên như vậy vì khi còn là nhân loại có tên Pañcasikha chứng thiền khi còn niên thiếu rồi mệnh chung sanh vào cõi phạm thiên với nét mặt rất trẻ trung của một đồng tử. Vị phạm thiên nầy thâm tín Tam Bảo, xuất hiện trong nhiều bài kinh kể cả kinh Đại Hội Quần Tiên (Mahāsamaya Sutta). Rất thú vị là Thường Đồng Tử được ghi lại với nhiều giai thoại trong kinh điển Phật giáo Bắc Truyền (…).

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

1. Sanaṅkumārasuttaṃ [Mūla]

182. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati sappinītīre. Atha kho brahmā sanaṅkumāro abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ sappinītīraṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sanaṅkumāro bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino;

Vijjācaraṇasampanno, so seṭṭho devamānuse’’ti.

Idamavoca brahmā sanaṅkumāro. Samanuñño satthā ahosi. Atha kho brahmā sanaṅkumāro ‘‘samanuñño me satthā’’ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti.

1. Sanaṅkumārasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

182. Dutiyavaggassa paṭhame sappinītīreti sappinīnāmikāya nadiyā tīre. Sanaṅkumāroti so kira pañcasikhakumārakakāle jhānaṃ bhāvetvā brahmaloke nibbatto kumārakavaṇṇeneva vicarati. Tena naṃ ‘‘kumāro’’ti sañjānanti, porāṇakattā pana ‘‘sanaṅkumāro’’ti vuccati. Janetasminti janitasmiṃ, pajāyāti attho. Ye gottapaṭisārinoti ye janetasmiṃ gottaṃ paṭisaranti tesu loke gottapaṭisārīsu khattiyo seṭṭho. Vijjācaraṇasampannoti bhayabheravasuttapariyāyena (ma. ni. 1.34 ādayo) pubbenivāsādīhi vā tīhi, ambaṭṭhasuttapariyāyena (dī. ni. 1.278 ādayo) vipassanāñāṇaṃ manomayiddhi cha abhiññāyoti imāhi vā aṭṭhahi vijjāhi, sīlesu paripūrakāritā indriyesu guttadvāratā bhojane mattaññutā jāgariyānuyogo satta saddhammā cattāri rūpāvacarajjhānānīti evaṃ pannarasadhammabhedena caraṇena ca samannāgato. So seṭṭho devamānuseti so khīṇāsavabrāhmaṇo devesu ca manussesu ca seṭṭho uttamoti. Paṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc