- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 26.11.2022
ANH HÙNG BIẾT TRỌNG ANH HÙNG
Kinh Cao Nhân Rừng Thẳm (Araññāyatanaisisuttaṃ)
CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA, PHẨM THỨ NHẤT (S. i, 226)
Người đời nói “anh hùng biết trọng anh hùng”. Trong lãnh vực tinh thần thì người hiền thiện biết trân quý người hiền thiện. Chư thiên chánh kiến kính quý những bậc giới hạnh cao đức. Ngược lại chư thiên ác kiến thì coi thường. Có những giá trị vượt ngoài ranh giới của chủng loại, địa vị, giai tầng xã hội. Người tầm thường chỉ biết thưởng thức hương thơm vật chất trong lúc những bậc trí thì thưởng thức giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương.
Sāvatthiyaṃ. ‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sambahulā isayo sīlavanto kalyāṇadhammā araññāyatane paṇṇakuṭīsu sammanti. Atha kho, bhikkhave, sakko ca devānamindo vepacitti ca asurindo yena te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā tenupasaṅkamiṃsu. Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo paṭaliyo upāhanā ārohitvā khaggaṃ olaggetvā chattena dhāriyamānena aggadvārena assamaṃ pavisitvā te isayo sīlavante kalyāṇadhamme apabyāmato karitvā atikkami. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo paṭaliyo upāhanā orohitvā khaggaṃ aññesaṃ datvā chattaṃ apanāmetvā dvāreneva assamaṃ pavisitvā te isayo sīlavante kalyāṇadhamme anuvātaṃ pañjaliko namassamāno aṭṭhāsi’’. Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu –
Tại Sāvatthi.
Này chư Tỳ khưu, thuở xưa có nhiều ẩn sĩ cao đức hiền thiện cộng trú trong những am thất tại một khu rừng. Này chư Tỳ khưu, bấy giờ Thiên chủ Sakka và A tu la vương Vepacitti đi đến các vị ẩn sĩ .
Này chư Tỳ khưu, khi ấy A tu la vương Vepacitti chân mang giày ống, trên người đeo kiếm, đi vào tu viện qua bằng cổng chính với cờ lọng. Sau khi bước vào rẽ về phía trái các ẩn sĩ và giữ một khoảng cách. Còn Thiên chủ Sakka thì tháo giày, trao kiếm cho tuỳ tùng, hạ cờ lọng, đi vào tu viện qua cổng nhỏ, đứng một bên chấp tay kính lễ những ẩn sĩ giới hạnh, hiền thiện.
Này chư Tỳ khưu, các vị ẩn sĩ nói với Thiên chủ Sakka bằng kệ ngôn:
‘‘Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ,
Kāyā cuto gacchati mālutena;
Ito paṭikkamma sahassanetta,
Gandho isīnaṃ asuci devarājā’’ti.
“Mùi từ thân ẩn sĩ
Vốn tu hành đã lâu
Từ thân bay theo gió
Bậc Thiên Nhãn hãy tránh
Mùi hôi, thưa thiên chủ.
(Sakka):
‘‘Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ,
Kāyā cuto gacchatu mālutena,
Sucitrapupphaṃ sirasmiṃva mālaṃ;
Gandhaṃ etaṃ paṭikaṅkhāma bhante,
Na hettha devā paṭikūlasaññino’’ti.
“Mùi từ thân ẩn sĩ
Vốn tu hành đã lâu
Từ thân bay theo gió
Chúng con mong mùi ấy
Như hoa thơm trên đầu
Chư thiên không ghê tởm.
‘‘Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ = mùi nơi các ẩn sĩ
Kāyā cuto gacchati mālutena = từ thân bay theo gió
Ito paṭikkamma sahassanetta = Hỡi bậc Thiên Nhãn, hãy đi nơi khác
Gandho isīnaṃ asuci devarājā’’ti = Vì mùi của những ẩn sĩ hôi, thưa Thiên chủ
‘‘Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ = mùi nơi các ẩn sĩ
Kāyā cuto gacchatu mālutena = từ thân bay theo gió
Sucitrapupphaṃ sirasmiṃva mālaṃ = như tràng hoa trên đầu
Gandhaṃ etaṃ paṭikaṅkhāma bhante = chúng con mong được mùi hương ấy, thưa các Ngài
Na hettha devā paṭikūlasaññino’’ti = chư thiên không thấy đó là điều khó chịu
Mang giày dép, đeo binh khí, tiến vào với dù lọng, đi ngược chiều kim đồng hồ là thái độ cao ngạo thiếu tôn kính đối với các bậc cao đức.
Đối với chư thiên, mùi từ thân nhân loại không được tinh khiết. Thiên chủ Đế Thích với lòng kính trọng những bậc cao đức giới hạnh thì chẳng những không khó chịu mà rất hoan hỷ khi đến đảnh lễ và phục vụ Đức Phật, chư vị thánh tăng, hay những bậc tu hành cao trọng.
Danh gọi sahassanetta – Đấng Thiên Nhãn – vốn được dùng để chỉ cho Thiên chủ Đế Thích. Trong Phật giáo Bắc Truyền thì Thiên thủ thiên nhãn chỉ cho Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Cụm từ “sucitrapupphaṃ sirasmiṃva mālaṃ – như tràng hoa trên đầu” là hoa kết có mùi thơm dùng để trang sức và áp chế mùi của thân thể.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
9. Araññāyatanaisisuttaṃ [Mūla]
255. Sāvatthiyaṃ. ‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sambahulā isayo sīlavanto kalyāṇadhammā araññāyatane paṇṇakuṭīsu sammanti. Atha kho, bhikkhave, sakko ca devānamindo vepacitti ca asurindo yena te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā tenupasaṅkamiṃsu. Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo paṭaliyo [aṭaliyo (sī. syā. kaṃ. pī.), āṭaliyo (ka.) ma. ni. 2.410] upāhanā ārohitvā khaggaṃ olaggetvā chattena dhāriyamānena aggadvārena assamaṃ pavisitvā te isayo sīlavante kalyāṇadhamme apabyāmato karitvā atikkami. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo paṭaliyo upāhanā orohitvā khaggaṃ aññesaṃ datvā chattaṃ apanāmetvā dvāreneva assamaṃ pavisitvā te isayo sīlavante kalyāṇadhamme anuvātaṃ pañjaliko namassamāno aṭṭhāsi’’. Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu –
‘‘Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ,
Kāyā cuto gacchati mālutena;
Ito paṭikkamma sahassanetta,
Gandho isīnaṃ asuci devarājā’’ti.
‘‘Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ,
Kāyā cuto gacchatu [gacchati (sī. syā. kaṃ.)] mālutena,
Sucitrapupphaṃ sirasmiṃva mālaṃ;
Gandhaṃ etaṃ paṭikaṅkhāma bhante,
Na hettha devā paṭikūlasaññino’’ti.
9. Araññāyatanaisisuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
255. Navame paṇṇakuṭīsu sammantīti himavantapadese ramaṇīye araññāyatane rattiṭṭhānadivāṭṭhānacaṅkamanādīhi sampannāsu paṇṇasālāsu vasanti. Sakko ca devānamindo vepacitti cāti ime dve janā jāmātikasasurā kālena kalahaṃ karonti, kālena ekato caranti, imasmiṃ pana kāle ekato caranti. Paṭaliyoti gaṇaṅgaṇūpāhanā. Khaggaṃ olaggetvāti khaggaṃ aṃse olaggetvā. Chattenāti dibbasetacchattena matthake dhārayamānena. Apabyāmato karitvāti byāmato akatvā. Ciradikkhitānanti cirasamādiṇṇavatānaṃ. Ito paṭikkammāti ‘‘ito pakkama parivajjaya, mā uparivāte tiṭṭhā’’ti vadanti. Na hettha devāti etasmiṃ sīlavantānaṃ gandhe devā na paṭikkūlasaññino, iṭṭhakantamanāpasaññinoyevāti dīpeti. Navamaṃ.