Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | VII. Phẩm Alahán (arahantavagga) _ Kệ số 5 (dhp 94)

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | VII. Phẩm Alahán (arahantavagga) _ Kệ số 5 (dhp 94)

Thứ năm, 15/12/2022, 11:50 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học thứ năm 15.12.2022


VII

PHẨM A LA HÁN

(arahantavagga)

VII. Phẩm Alahán _ Kệ số 5 (dhp 94)

Duyên sự:

Bài kệ nầy đức Phật thuyết tại Pubbārāma ở Sāvatthi, nhân câu chuyện của trưởng lão Mahākaccāyana.

Một thời, đức Thế Tôn ngự tại chùa Pubbārāma trong lâu đài, do bà Visākhā xây dựng.

Nhân ngày tự tứ, trưởng lão Mahākaccāyana mặc dù cư ngụ ở xứ Avantī xa xôi nhưng Ngài cũng đến dự lễ tự tứ để nghe đức Thế tôn thuyết pháp.

Khi chư Tăng tụ hợp đông đủ có chừa một chỗ ngồi dành cho trưởng lão Mahākaccāyana vì Trưởng lão chưa đến. Chư thiên cũng hiện xuống đảnh lễ và cúng dường hương hoa thiên giới đến đức Phật và chư tăng. Thiên Chủ Đế Thích không thấy trưởng lão Mahākaccāyana, tự hỏi: “Sao không thấy trưởng lão nhỉ! Nếu có Ngài đến thì thật là hoan hỷ”.

Ngay lúc ấy, trưởng lão Mahākaccāyana đến nơi, ngồi vào chỗ ngồi dành sẵn.

Đức Đế Thích vừa trông thấy trưởng lão thì vui lên, đảnh lễ và xoa lên bàn chân của trưởng lão, rồi cúng dường hương hoa, lễ phẩm đến Ngài. Xong đứng qua một bên.

Một vài vị tỳ kheo thấy vậy chê trách: “Thiên Chủ Đế Thích có thái độ ưu ái vị trưởng lão thật quá đáng”.

Nghe lời chê trách ấy của các tỳ kheo đức Thế Tôn bảo: “Này các tỳ kheo, bất cứ vị tỳ kheo nào có sự thu thúc lục căn như Mahākaccāyana cũng được chư thiên và nhân loại ái mộ vậy cả”. Nói xong Ngài thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ: “Yass’ indriyāni samatthaṅgatāni … devā ’pi tassa pihayanti tādino ’ti”.

*

Chánh văn:

Yass’indriyāni samathaṅgatāni

assā yathā sārathinā sudantā

pahīnamānassa anāsavassa

devā ’pi tassa pihayanti tādino.

(dhp 94)

*

Thích văn:

yass’indriyāni [hợp âm yassa indriyāni]

yassa [chỉ định cách số ít nam tính của quan hệ đại từ ya] nơi người nào, đối với ai.

indriyāni [chủ cách số nhiều của danh từ trung tính indriya] các quyền, các căn, các giác quan.

samathaṅgatāni [hợp âm samathaṃ gatāni]

samathaṃ [đối cách số ít của danh từ nam tính samatha] sự tĩnh lặng, sự an tịnh.

gatāni [chủ cách số nhiều trung tính của tính từ gata (quá khứ phân từ của động từ gacchati] đã đi đến. “samathaṅgata” đã được tĩnh lặng, đã được an tịnh.

assā [chủ cách số nhiều của danh từ nam tính assa] những con ngựa.

yathā [trạng từ] như thế nào, như là.

sārathinā [sở dụng cách số ít của danh từ nam tính sārathī] bởi người đánh xe, bởi xa phu.

sudantā [chủ cách số nhiều nam tính của tính từ sudanta (su + danta)_quá khứ phân từ của (dam + ta)] khéo điều phục, khéo thuần hoá.

pahīnamānassa [chỉ định cách số ít nam tính của hợp thể tính từ pahīnamāna (pahīna + māna)] kiêu mạn đã đoạn trừ, vị đã từ bỏ kiêu mạn.

anāsavassa [chỉ định cách số ít nam tính của hợp thể tính từ anāsava (na + āsava)] không còn lậu hoặc, không có ô nhiễm, bậc vô lậu.

devā’pi [hợp âm devā api]

devā [chủ cách số nhiều của danh từ nam tính deva] các vị trời, chư thiên.

api [liên từ] cũng, dù là.

tassa [chỉ định cách số ít nam tính của chỉ thị đại từ ta] đối với người ấy, của người ấy.

pihayanti [động từ hiện tại ngôi III số nhiều (pih + ya)] mến mộ, ngưỡng mộ.

tādino [chỉ định cách số ít nam tính của tính từ tādī] có như thế, người như thế.

*

Việt văn:

Người các căn tĩnh lặng

như ngựa khéo huấn luyện

mạn trừ, lậu hoặc dứt

người vậy, chư thiên kính.

(pc 94)

*

Chuyển văn:

Yassa indriyāni sārathinā sudantā assā yathā samathaṃ gatāni, pahīnamānassa anāsavassa tādino tassa devā api pihayanti.

Người mà các căn được tĩnh lặng như ngựa được người đánh xe khéo huấn luyện, người mà mạn đã trừ, không còn lậu hoặc, đối với người như thế chư thiên đều ngưỡng mộ.

*

Lý giải:

Bài kệ nầy đức Phật cũng nói lên hành trạng của bậc A la hán.

Bất luận vị nào có lục căn được yên tịnh, tức là có chánh niệm tỉnh giác khi mắt (nhãn căn) thấy cảnh sắc, tai (nhĩ căn) nghe cảnh thinh, mũi (tỷ căn) ngửi mùi, lưỡi (thiệt căn) nếm vị, thân (thân căn) xúc chạm, ý (ý căn) suy nghĩ. Lục căn được khéo thu thúc như ngựa được người đánh xe khéo huấn luyện, thuần thục.

Vị ấy là bậc đã trừ chín cách kiêu mạn, như hơn ỷ hơn, hơn ỷ bằng, hơn ỷ thua, bằng ỷ hơn, bằng ỷ bằng, bằng ỷ thua, thua ỷ hơn, thua ỷ bằng, thua ỷ thua.

Vị ấy là bậc không còn bốn lậu hoặc, như dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu.

Đối với bậc có những đức tính như thế thì các vị trời đều hằng mong đợi để diện kiến, chứ chư thiên không ái mộ riêng một vị A la hán nào.

Tỳ khưu Tuệ Siêu biên soạn

Ý kiến bạn đọc