Môn học: PĀLI PHÁP CÚ - IV. Phẩm Hoa_ Kệ số 8 và 9 (dhp 51, 52)

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ - IV. Phẩm Hoa_ Kệ số 8 và 9 (dhp 51, 52)

Thứ năm, 18/08/2022, 20:00 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học ngày 18.8.2022


IV. Phẩm Hoa_ Kệ số 8 và 9 (dhp 51, 52)

Duyên sự:

Hai bài kệ nầy được đức Phật thuyết khi Ngài ngụ tại Jetavana thành Sāvatthi, nhân câu chuyện hai bà mệnh phụ phu nhân của vua Pasenadi học giáo pháp.

Hai ái hậu của vua là bà Mallikā và bà Vāsabhakhattiyā muốn học giáo lý nên nhà vua thân hành đến đức Phật xin thỉnh chư tăng vào hoàng cung thọ thực mỗi ngày và một vị tỳ kheo dạy pháp cho hai hoàng hậu.

Đức Phật truyền dạy tôn giả Ānanda lãnh trách nhiệm ấy.

Mỗi ngày tôn giả Ānanda dẫn năm trăm tỳ kheo vào hoàng cung thọ thực, xong tôn giả giảng dạy giáo pháp cho hai hoàng hậu của vua. Trong hai bà, hoàng hậu Mallikā học nghiêm túc, chú ý nghe, chăm chỉ học thuộc lòng và lãnh hội đề tài pháp; còn bà Vāsabhakhattiyā thì xao nhãng việc học pháp nên không thu thập được gì.

Một hôm, đức Phật hỏi tôn giả Ānanda về việc học pháp của hai bà hoàng tiến bộ gì không? Tôn giả đã trả lời đức Phật rằng: Hoàng hậu Mallikā nghiêm túc học hành nên có tiến bộ, còn thứ hậu Vāsabhakhattiyā thì không.

Nghe vậy, đức Thế Tôn kết luận:

Nầy Ānanda, pháp của ta thuyết giảng là khéo thuyết, như bông hoa có sắc thắm, nếu người học và hành theo sẽ có kết quả, làm cho giáo pháp như hoa có sắc có hương; Ngược lại dù giáo pháp được khéo thuyết nhưng chúng sanh không chịu nghe, không chịu hành theo, sẽ làm cho giáo pháp như hoa có sắc mà không có hương.

Rồi đức Thế Tôn nói lên hai bài kệ: “Yathā pi ruciraṃ pupphaṃ … saphalā hoti sakubbato”.

Dứt bài kệ có nhiều vị tỳ kheo đắc chứng thánh quả.

*

Chánh văn:

Yathā pi ruciraṃ pupphaṃ

vaṇṇavantaṃ agandhakaṃ

evaṃ subhāsitā vācā

aphalā hoti akubbato.

(dhp 51)

Yathā pi ruciraṃ pupphaṃ

vaṇṇavantaṃ sagandhakaṃ

evaṃ subhāsitā vācā

saphalā hoti sakubbato.

(dhp 52)

*

Thích văn:

ruciraṃ [chủ cách số ít trung tính của tính từ rucira] xinh xắn, tươi đẹp.

pupphaṃ [chủ cách số ít của danh từ trung tính puppha] bông hoa.

vaṇṇavantaṃ [chủ cách số ít trung tính của danh tính từ vaṇṇavantu] có màu sắc.

agandhakaṃ [chủ cách số ít trung tính của tính từ agandhaka (a + gandha + ka)] không hương, không mùi thơm.

evaṃ [trạng từ] như vậy, cũng vậy.

subhāsitā [chủ cách số ít nữ tính của tính từ subhāsita (su + bhāsita)_quá khứ phân từ của động từ bhāsati] khéo nói, khéo thuyết.

vācā [chủ cách số ít của danh từ nữ tính vācā] lời nói, ngôn từ.

aphalā [chủ cách số ít nữ tính của tính từ aphala (a + phala)] không có quả, không hiệu quả, không kết quả.

hoti [động từ hiện tại ngôi III số ít (căn hū + a)] là, thành, trở thành. Đây dùng như trợ động từ đi với aphalā.

akubbato [chỉ định cách số ít nam tính của tính từ akubbanta (a + kubbanta)_hiện tại phân từ của động từ kubbati] cho người không làm, đối với người không hành động.

sagandhakaṃ [chủ cách số ít trung tính của tính từ sagandhaka (sa + gandha + ka)] có mùi thơm, có hương.

saphalā [chủ cách số ít nữ tính của tính từ saphala (sa + phala)] có quả , có kết quả, có hiệu quả.

sakubbato [chỉ định cách số ít nam tính của tính từ sakubbanta (sa + kubbanta)_hiện tại phân từ của động từ kubbati] cho người có làm, đối với người có hành động, đối với người có thực hiện.

*

Việt văn:

Như bông hoa tươi đẹp

có sắc không hương thơm

cũng vậy, lời thiện thuyết

không hành không kết quả.

(pc 51)

Như bông hoa tươi đẹp

có sắc có hương thơm

cũng vậy, lời thiện thuyết

có hành có kết quả.

(pc 52)

*

Chuyển văn:

Yathā api ruciraṃ vaṇṇavantaṃ agandhakaṃ pupphaṃ, evaṃ subhāsitā vācā akubbato aphalā hoti.

Như bông hoa đẹp có sắc không có hương, cũng vậy lời khéo thuyết sẽ không có hiệu quả cho người không thực hành

Yathā api ruciraṃ vaṇṇavantaṃ sagandhakaṃ pupphaṃ, evaṃ subhāsitā vācā sakubbato saphalā hoti.

Như bông hoa đẹp có sắc có hương, cũng vậy lời khéo thuyết đối với người có thực hành mới có hiệu quả.

*

Lý giải:

Hai bài kệ nầy đức Phật thuyết khi tôn giả Ānanda trình bày với Ngài là Hoàng hậu Mallikā chuyên chú học giáo pháp được giảng dạy nên lãnh hội tốt, còn bà Vāsabhakhattiyā thì không chú tâm học nên không lãnh hội lý pháp.

Theo chú giải, subhāsitā vācā (lời thiện thuyết, lời khéo nói) tức là Phật ngôn tam tạng (subhāsitā vācā nāma tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ).

Lời dạy của đức Phật là lời thiện thuyết.

Do đó, nên hiểu ý nghĩa hai bài kệ nầy như sau:

Lời dạy của đấng Giác Ngộ có hiệu năng hướng thượng giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau. Nhưng đối với người không chịu nghe, không chịu thực hành, thì người ấy không thoát khỏi đau khổ, giáo pháp đối với người ấy trở thành vô bổ, trở thành không có giá trị. Như thuốc hay mà người bệnh không uống thì thuốc ấy không có tác dụng trị lành bệnh của người đó. Ở đây đức Phật ví dụ giáo pháp khéo thuyết của Ngài như bông hoa có sắc sẽ trở thành không hương thơm đối với người không thực hành.

Ngược lại, đối với người có niềm tin lắng tai nghe, và thực hành theo giáo pháp, thì lời dạy của đấng Giác Ngộ có tác dụng hữu ích cho họ. Như thuốc hay sẽ có tác dụng trị lành bệnh của bệnh nhân chịu uống thuốc vậy. Ở đây đức Phật ví dụ giáo pháp của Ngài vốn khéo thuyết như bông hoa đẹp có sắc thắm, nếu người chịu thực hành sẽ thưởng thức hương vị của giáo pháp, khiến cho giáo pháp đã có sắc thắm lại thêm hương thơm.

Nếu hiểu hai bài kệ nầy, người nói lời hoa mỹ mà không làm thì cũng như bông hoa có sắc không hương … Hiểu thế thì không phù hợp với duyên sự mà đức Phật đã thuyết hai bài kệ nầy.

Biên soạn giáo trình: Tỳ khưu Tuệ Siêu

Ý kiến bạn đọc