LÊN TRỜI GẶP MA _ Kinh Thiên Nữ (Accharāsuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM THIÊU CHÁY (S.i,33) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 24.7.2021

LÊN TRỜI GẶP MA _ Kinh Thiên Nữ (Accharāsuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM THIÊU CHÁY (S.i,33) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 24.7.2021

Thứ bảy, 24/07/2021, 14:17 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 24.7.2021


LÊN TRỜI GẶP MA

Kinh Thiên Nữ (Accharāsuttaṃ)

CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM THIÊU CHÁY (S.i,33)

Đằng sau bài kinh nầy là một câu chuyện... lạ. Một vị tỳ kheo đang tinh tấn tu tập bất chợt mệnh chung sanh về cõi Đâu suất. Vì là hạng hoá sanh với nhiều phước báu nên tất cả hiện ra lập tức với thiên cung mỹ diệu cùng nhiều tiên nữ tuyệt sắc vây quanh. Vẫn nghĩ rằng mình còn là một tỳ kheo đang hành đạo nên vị thiên nầy có phản ứng không thoải mái khi những tiên nữ đến gần. Một tiên nữ dùng chiếc gương để cho vị thiên biết là vị ấy không là một tỳ kheo nữa. Thân tướng thay đổi nhưng tâm tư tu hành không đổi. Vị thiên đến gặp Đức Phật để hỏi con đường siêu thoát khỏi… thiên giới. Bậc Đạo Sư đã truyền dạy con đường Bát Chánh và sau kệ ngôn nầy Phật dạy về tứ diệu đế. Nghe xong vị thiên chứng ngộ đạo quả.

''Accharāgaṇasaṅghuṭṭhaṃ, pisācagaṇasevitaṃ.

Vanantaṃ mohanaṃ nāma, kathaṃ yātrā bhavissatīti..

[Vị Thiên]

Thiên nữ đoàn tụ hội,

Ngạ quỷ chúng tới lui,

Rừng ấy danh rừng si,

Làm sao có lối thoát?

Bản hiệu đính:

Bao tiên nữ kiều mị ,

Kỳ thật là quần ma,

Rừng ấy: Rừng Mê Luỵ

Đâu là nẻo thoát ra?

[Thế Tôn]:

''Ujuko nāma so maggo,

abhayā nāma sā disā.

Ratho akūjano nāma,

dhammacakkehi saṃyuto..

''Hirī tassa apālambo,

satyassa parivāraṇaṃ.

Dhammāhaṃ sārathiṃ brūmi,

sammādiṭṭhipurejavaṃ..

''Yassa etādisaṃ yānaṃ,

itthiyā purisassa vā.

Sa ve etena yānena, nibbānasseva santiketi..

''Ðường ấy tên chơn trực,

Phương ấy danh vô úy,

Cỗ xe gọi vô thanh,

Với pháp luân khéo ráp,

''Tàm là dàn xe dựa,

Niệm là trướng màn xe,

Ta nói vị đánh xe,

Tức là chơn diệu pháp,

Và chính chánh tri kiến,

Mau chóng đi tiền phong.

''Không kể nam hay nữ,

Ðều dùng cỗ xe ấy.

Chính nhờ cỗ xe ấy,

Hướng tiến đến Niết-bàn.

Bản hiệu đính:

''Đường ấy tên Trực Chỉ,

Điểm đến gọi Vô Uý,

Cỗ xe chạy nhẹ êm,

Với bánh xe khéo ráp.

''Lòng tàm là tựa lưng,

Chánh niệm là ghế đệm,

“Pháp” là người điều khiển,

Với chánh kiến dẫn đầu.

''Ai dùng cỗ xe ấy,

Bất luận nam hay nữ,

Chính do phương tiện nầy,

Thẳng tiến đến Niết Bàn.

Accharā +gaṇa +saṅghuṭṭhaṃ = lộng lẫy với quần tiên

Pisāca+gaṇa+sevitaṃ = liên hệ với quần ma

ujuko maggo = con đường trực chỉ, không quanh co

abhayā disā = chốn bình yên, nơi không sợ hãi

Ratho akūjano = xem chạy êm, không sục xịch

- Theo Sớ giải con đường trực chỉ – ujuko maggo – là Bát Chánh Đạo.

- Chốn không sợ hãi, chốn bình an thật sự là niết bàn.

- Pháp xa dù có chở muôn vạn chúng sinh cũng không bị hỏng hay tạo nên âm thanh kĩu kịt (na kūjati na viravati).

- Chánh pháp chính là người đánh xe hay người điều khiển.

- Chánh kiến hay cái nhìn chơn chánh, chân xác được xem là tiên khởi của hành trình.

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

6. Accharāsuttaṃ [Mūla]

46. ''Accharāgaṇasaṅghuṭṭhaṃ, pisācagaṇasevitaṃ.

Vanantaṃ mohanaṃ nāma, kathaṃ yātrā bhavissatīti..

''Ujuko nāma so maggo, abhayā nāma sā disā.

Ratho akūjano nāma, dhammacakkehi saṃyuto..

''Hirī tassa apālambo, satyassa parivāraṇaṃ.

Dhammāhaṃ sārathiṃ brūmi, sammādiṭṭhipurejavaṃ..

''Yassa etādisaṃ yānaṃ, itthiyā purisassa vā.

Sa ve etena yānena, nibbānasseva santiketi..

6. Accharāsuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

46. Chaṭṭhe accharāgaṇasaṅghuṭṭhanti ayaṃ kira devaputto satthusāsane pabbajitvā vattapaṭipattiṃ pūrayamāno pañcavassakāle pavāretvā dvemātikaṃ paguṇaṃ katvā kammākammaṃ uggahetvā cittarucitaṃ kammaṭṭhānaṃ uggaṇhitvā sallahukavuttiko araññaṃ pavisitvā yo bhagavatā majjhimayāmo sayanassa koṭṭhāsoti anuññāto. Tasmimpi sampatte ‘‘pamādassa bhāyāmī’’ti mañcakaṃ ukkhipitvā rattiñca divā ca nirāhāro kammaṭṭhānameva manasākāsi.

Athassa abbhantare satthakavātā uppajjitvā jīvitaṃ pariyādiyiṃsu. So dhurasmiṃyeva kālamakāsi. Yo hi koci bhikkhu caṅkame caṅkamamāno vā ālambanatthambhaṃ nissāya ṭhito vā caṅkamakoṭiyaṃ cīvaraṃ sīse ṭhapetvā nisinno vā nipanno vā parisamajjhe alaṅkatadhammāsane dhammaṃ desento vā kālaṃ karoti, sabbo so dhurasmiṃ kālaṃ karoti nāma. Iti ayaṃ caṅkamane kālaṃ katvā upanissayamandatāya āsavakkhayaṃ appatto tāvatiṃsabhavane mahāvimānadvāre niddāyitvā pabujjhanto viya paṭisandhiṃ aggahesi. Tāvadevassa suvaṇṇatoraṇaṃ viya tigāvuto attabhāvo nibbatti.

Antovimāne sahassamattā accharā taṃ disvā, ‘‘vimānasāmiko devaputto āgato, ramayissāma na’’nti tūriyāni gahetvā parivārayiṃsu. Devaputto na tāva cutabhāvaṃ jānāti, pabbajitasaññīyeva accharā oloketvā vihāracārikaṃ āgataṃ mātugāmaṃ disvā lajjī. Paṃsukūliko viya upari ṭhitaṃ ghanadukūlaṃ ekaṃsaṃ karonto aṃsakūṭaṃ paṭicchādetvā indriyāni okkhipitvā adhomukho aṭṭhāsi. Tassa kāyavikāreneva tā devatā ‘‘samaṇadevaputto aya’’nti ñatvā evamāhaṃsu – ‘‘ayya, devaputta, devaloko nāmāyaṃ, na samaṇadhammassa karaṇokāso, sampattiṃ anubhavanokāso’’ti. So tatheva aṭṭhāsi. Devatā ‘‘na tāvāyaṃ sallakkhetī’’ti tūriyāni paggaṇhiṃsu. So tathāpi anolokentova aṭṭhāsi.

Athassa sabbakāyikaṃ ādāsaṃ purato ṭhapayiṃsu. So chāyaṃ disvā cutabhāvaṃ ñatvā, ‘‘na mayā imaṃ ṭhānaṃ patthetvā samaṇadhammo kato, uttamatthaṃ arahattaṃ patthetvā kato’’ti sampattiyā vippaṭisārī ahosi, ‘‘suvaṇṇapaṭaṃ paṭilabhissāmī’’ti takkayitvā yuddhaṭṭhānaṃ otiṇṇamallo mūlakamuṭṭhiṃ labhitvā viya. So – ‘‘ayaṃ saggasampatti nāma sulabhā, buddhānaṃ pātubhāvo dullabho’’ti cintetvā vimānaṃ apavisitvāva asambhinneneva sīlena accharāsaṅghaparivuto dasabalassa santikaṃ āgamma abhivādetvā ekamantaṃ ṭhito imaṃ gāthaṃ abhāsi.

Tattha accharāgaṇasaṅghuṭṭhanti accharāgaṇena gītavāditasaddehi saṅghositaṃ. Pisācagaṇasevitanti tameva accharāgaṇaṃ pisācagaṇaṃ katvā vadati. Vananti nandanavanaṃ sandhāya vadati. Ayañhi niyāmacittatāya attano garubhāvena devagaṇaṃ ‘‘devagaṇo’’ti vattuṃ na roceti. ‘‘Pisācagaṇo’’ti vadati. Nandanavanañca ‘‘nandana’’nti avatvā ‘‘mohana’’nti vadati. Kathaṃ yātrā bhavissatīti kathaṃ niggamanaṃ bhavissati, kathaṃ atikkamo bhavissati, arahattassa me padaṭṭhānabhūtaṃ vipassanaṃ ācikkhatha bhagavāti vadati.

Atha bhagavā ‘‘atisallikhateva ayaṃ devaputto, kiṃ nu kho ida’’nti? Āvajjento attano sāsane pabbajitabhāvaṃ ñatvā – ‘‘ayaṃ accāraddhavīriyatāya kālaṃ katvā devaloke nibbatto, ajjāpissa caṅkamanasmiṃyeva attabhāvo asambhinnena sīlena āgato’’ti cintesi. Buddhā ca akatābhinivesassa ādikammikassa akataparikammassa antevāsino cittakāro bhittiparikammaṃ viya – ‘‘sīlaṃ tāva sodhehi, samādhiṃ bhāvehi, kammassakatapaññaṃ ujuṃ karohī’’ti paṭhamaṃ pubbabhāgappaṭipadaṃ ācikkhanti, kārakassa pana yuttapayuttassa arahattamaggapadaṭṭhānabhūtaṃ saṇhasukhumaṃ suññatāvipassanaṃyeva ācikkhanti, ayañca devaputto kārako abhinnasīlo, eko maggo assa anāgatoti suññatāvipassanaṃ ācikkhanto ujuko nāmātiādimāha.

Tattha ujukoti kāyavaṅkādīnaṃ abhāvato aṭṭhaṅgiko maggo ujuko nāma. Abhayā nāma sā disāti nibbānaṃ sandhāyāha. Tasmiṃ hi kiñci bhayaṃ natthi, taṃ vā pattassa bhayaṃ natthīti ‘‘abhayā nāma sā disā’’ti vuttaṃ. Ratho akūjanoti aṭṭhaṅgiko maggova adhippeto. Yathā hi pākatikaratho akkhe vā anabbhañjite atirekesu vā manussesu abhiruḷhesu kūjati viravati, na evaṃ ariyamaggo. So hi ekappahārena caturāsītiyāpi pāṇasahassesu abhiruhantesu na kūjati na viravati. Tasmā ‘‘akūjano’’ti vutto. Dhammacakkehi saṃyutoti kāyikacetasikavīriyasaṅkhātehi dhammacakkehi saṃyutto.

Hirīti ettha hiriggahaṇena ottappampi gahitameva hoti. Tassa apālamboti yathā bāhirakarathassa rathe ṭhitānaṃ yodhānaṃ apatanatthāya dārumayaṃ apālambanaṃ hoti, evaṃ imassa maggarathassa ajjhattabahiddhāsamuṭṭhānaṃ hirottappaṃ apālambanaṃ. Satyassa parivāraṇanti rathassa sīhacammādiparivāro viya imassāpi maggarathassa sampayuttā sati parivāraṇaṃ. Dhammanti lokuttaramaggaṃ. Sammādiṭṭhipurejavanti vipassanāsammādiṭṭhipurejavā assa pubbayāyikāti sammādiṭṭhipurejavo, taṃ sammādiṭṭhipurejavaṃ. Yathā hi paṭhamataraṃ rājapurisehi kāṇakuṇiādīnaṃnīharaṇena magge sodhite pacchā rājā nikkhamati, evamevaṃ vipassanā sammādiṭṭhiyā aniccādivasena khandhādīsu sodhitesu pacchā bhūmiladdhavaṭṭaṃ parijānamānā maggasammādiṭṭhi uppajjati. Tena vuttaṃ ‘‘dhammāhaṃ sārathiṃ brūmi, sammādiṭṭhipurejava’’nti.

Iti bhagavā desanaṃ niṭṭhāpetvā avasāne cattāri saccāni dīpesi. Desanāpariyosāne devaputto sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Yathā hi rañño bhojanakāle attano mukhappamāṇe kabaḷe ukkhitte aṅke nisinno putto attano mukhappamāṇeneva tato kabaḷaṃ karoti, evamevaṃ bhagavati arahattanikūṭena desanaṃ desentepi sattā attano upanissayānurūpena sotāpattiphalādīni pāpuṇanti. Ayampi devaputto sotāpattiphalaṃ patvā bhagavantaṃ gandhādīhi pūjetvā pakkāmīti. Chaṭṭhaṃ.

Ý kiến bạn đọc