KHÔNG GIẬN LẤY ĐÂU PHIỀN TRÁCH _ Kinh Hiềm Trách Thiên (Ujjhānasaññisuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,23) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 22.6.2021

KHÔNG GIẬN LẤY ĐÂU PHIỀN TRÁCH _ Kinh Hiềm Trách Thiên (Ujjhānasaññisuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,23) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 22.6.2021

Thứ ba, 22/06/2021, 13:48 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 22.6.2021


KHÔNG GIẬN LẤY ĐÂU PHIỀN TRÁCH

Kinh Hiềm Trách Thiên (Ujjhānasaññisuttaṃ)

CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,23)

Theo kinh điển thì chư thiên không phải lúc nào cũng chánh kiến, chánh tâm. Quần tiên Ujjhānasannā được biết là những vị hay tìm lỗi người khác. Những vị nầy đến diện kiến Phật cũng với ý chỉ trích là Đức Phật dạy chư tỳ kheo tinh tấn hạn chế tối đa với các nhu yếu như y phục, thực phẩm… trong lúc Đức Phật không khắc khổ tương tự. Đấng Vô Thượng Điều Ngự ôn tồn trả lời rằng với bậc chứng thiền định và đoạn tận ái chấp không thể được nhận định theo thường tình. Khi những vị thiên thấy được lời nói sai thì từ hư không hạ xuống đất vái tay xin sám hối. Đức Thế Tôn chỉ mĩm cười vì Ngài có dụng ý sẽ dạy thêm điều cần thiết. Một vị thiên trong nhóm không hiểu nụ cười của Phật đã trách Ngài hẹp lòng không tha thứ. Đức Phật dạy rằng Ngài không ưa thích hiềm hận thì cố chấp lỗi lầm của chúng sanh để làm gì.

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

1) Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).

Atha kho sambahulā ujjhānasaññikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā vehāsaṃ aṭṭhaṃsu.

2) Rồi rất nhiều quần tiên Ujjhānasannā (Hiềm trách thiên), sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, các vị ấy đứng giữa hư không.

Vehāsaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi :

3) Rồi một vị Thiên đứng giữa hư không, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

''Aññathā santamattānaṃ, aññathā yo pavedaye.

Nikacca kitavasseva, bhuttaṃ theyyena tassa taṃ..

''Yañhi kayirā tañhi vade, yaṃ na kayirā na taṃ vade.

Akarontaṃ bhāsamānānaṃ, parijānanti paṇḍitāti..

Những ai nói mình khác

Với điều họ thực có,

Thời mọi vật thọ dụng,

Xem như do trộm cắp,

Chẳng khác kẻ gian manh,

Dùng lừa đảo trộm cắp.

Hãy nói điều có làm,

Không nói điều không làm,

Không làm nói có làm,

Kẻ trí biết rõ họ.

Bản hiệu đính:

[một vị thiên]

Những ai nói một đàng

Nhưng lại làm một nẻo

Người ấy giống kẻ gian

Hưởng dụng đồ lấy trộm.

[một vị thiên khác]

Nên nói được làm được

Đừng nói nếu không làm

Bậc trí sẽ nhận biết

Ai nói suông không làm.

(Thế Tôn):

''Na yidaṃ bhāsitamattena, ekantasavanena vā.

Anukkamitave sakkā, yāyaṃ paṭipadā daḷhā.

Yāya dhīrā pamuccanti, jhāyino mārabandhanā..

''Na ve dhīrā pakubbanti, viditvā lokapariyāyaṃ.

Aññāya nibbutā dhīrā, tiṇṇā loke visattikanti..

Những ai chỉ biết nói,

Hay chỉ biết nghe thôi,

Những hạng người như vậy,

Không thể nào tiến bộ.

Khó nhọc thay con đường,

Giúp kẻ trí giải thoát.

Nhờ Thiền định thiêu cháy,

Mọi trói buộc quần ma,

Kẻ trí không làm vậy,

Sau khi biết thế tình,

Với trí, chứng Niết-bàn,

Vượt chấp trước ở đời.

Bản hiệu đính:

Không phải chỉ nói suông

Không phải chỉ có nghe

Mà tinh tiến đường tu

Bậc trí nhờ thiền định

Thoát cương toả của Ma

Bậc trí không sống ảo

Vì hiểu rõ thế gian

Với tuệ giác tịch nhiên

Vượt ái chấp trong đời.

Atha kho tā devatāyo pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ :

4) Rồi các quần tiên ấy đứng xuống đất, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:

Atha kho tā devatāyo pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''accayo no, bhante, accagamā yathābālaṃ yathāmūḷhaṃ yathāakusalaṃ [yathābālā yathāmūḷhā yathāakusalā (sabbattha)], yā mayaṃ bhagavantaṃ āsādetabbaṃ amaññimhā. Tāsaṃ no, bhante, Bhagavā accayaṃ accayato paṭiggaṇhātu āyatiṃ saṃvarāyāti.

-- Ðây là tội lỗi của chúng con, bạch Thế Tôn. Chúng con đi đến tội lỗi, vì ngu xuẩn, vì mê mờ, vì bất thiện. Chúng con nghĩ chúng con có thể công kích Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho chúng con, lỗi lầm là lỗi lầm để gìn giữ trong tương lai.

Atha kho Bhagavā sitaṃ pātvākāsi.

5) Rồi Thế Tôn mỉm cười.

Atha kho tā devatāyo bhiyyosomattāya ujjhāyantiyo vehāsaṃ abbhuggañchuṃ.

6) Các quần tiên ấy càng tức tối thêm và bay lên hư không.

Ekā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi :

7) Một vị Thiên nói bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

''Accayaṃ desayantīnaṃ, yo ce na paṭigaṇhati.

Kopantaro dosagaru, sa veraṃ paṭimuñcatīti..

''Accayo ce na vijjetha, nocidhāpagataṃ siyā.

Verāni na ca sammeyyuṃ, kenīdha kusalo siyāti..

''Kassaccayā na vijjanti, kassa natthi apāgataṃ.

Ko na sammohamāpādi, ko ca dhīro sadā satoti..

Ai không chịu chấp nhận,

Tội lỗi được phát lộ,

Nội phẫn, ưa sân hận,

Hận thù càng kiên chặt.

Nếu không có tội lỗi,

Ở đây không lầm lạc,

Hận thù không thể tiêu.

Do gì xem là thiện?

Với ai không tội lỗi?

Với ai không lầm lạc?

Ai không bị si mê?

Ai kẻ trí thường niệm?

Bản hiệu đính:

[một vị thiên]

Nếu Ngài không bao dung

Đối với lời hối lỗi

Với giận, ghét trong lòng

Hiềm hận càng chồng chất.

[Thế Tôn]

Với người không phạm lỗi

Với người không lầm lạc

Mọi hiềm hận không có

Là bậc vô khuyết phạm.

[một vị thiên]

Ai người không phạm lỗi?

Ai người không lầm lạc?

Ai người không bối rối?

Ai sáng, luôn chánh niệm?

(Thế Tôn):

''Tathāgatassa buddhassa, sabbabhūtānukampino.

Tassaccayā na vijjanti, tassa natthi apāgataṃ.

So na sammohamāpādi, sova [sodha (syā. kaṃ.)] dhīro sadā satoti..

''Accayaṃ desayantīnaṃ, yo ce na paṭigaṇhati.

Kopantaro dosagaru, sa veraṃ paṭimuñcati.

Taṃ veraṃ nābhinandāmi, paṭiggaṇhāmi voccayanti..

Như Lai, bậc Giác Ngộ,

Thương xót mọi hữu tình,

Nơi Ngài không tội lỗi,

Nơi Ngài không lầm lạc.

Ngài không bị si mê,

Ngài chánh trí thường niệm.

Ai không chịu chấp nhận,

Tội lỗi được phát lộ,

Nội phẫn, ưa sân hận,

Hận thù càng kiên chặt.

Ta không thích hận thù,

Ta nhận tội các Ông.

Bản hiệu đính:

Như Lai, bậc Giác Ngộ

Bi mẫn với muôn loài

Ngài bậc không tội lỗi

Ngài bậc không lầm lạc

Ngài không sống bối rối

Trí giả, luôn chánh niệm

Nếu người không tha lỗi

Cho người biết hối lỗi

Lòng giận. ý thù ghét

Thời nuôi dưỡng hiềm hận

Không ưa thích hiềm hận

Ta thứ lỗi các người.

ujjhānasaññikā devatā: chư thiên hay tìm lỗi người

aññathā santamattānaṃ, aññathā yo pavedaye: nói hay nhưng làm ngược lại

bhuttaṃ theyyena tassa taṃ: hưởng dụng đồ trộm cắp

Theo Sớ Giải tên nhóm quần tiên ujjhānasaññikā là tên do các bậc trưởng lão kết tập đặt cho các chư thiên đến để tìm lỗi chỉ trích Đức Phật chứ không phải danh xưng bình thường.

Chư thiên nói chuyện với Phật mà đứng hư không là điều trịch thượng.

Khi các vị thiên sám hối Đức Phật mìm cười với dụng ý sẽ giảng thêm khi có phản ứng không hài lòng của các vị thiên bởi vì đó là sự sám hối thiếu hiểu biết.

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

5. Ujjhānasaññisuttaṃ [Mūla]

35. Ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sambahulā ujjhānasaññikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā vehāsaṃ aṭṭhaṃsu. Vehāsaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi :

''Aññathā santamattānaṃ, aññathā yo pavedaye.

Nikacca kitavasseva, bhuttaṃ theyyena tassa taṃ..

''Yañhi kayirā tañhi vade, yaṃ na kayirā na taṃ vade.

Akarontaṃ bhāsamānānaṃ, parijānanti paṇḍitāti..

''Na yidaṃ bhāsitamattena, ekantasavanena vā.

Anukkamitave sakkā, yāyaṃ paṭipadā daḷhā.

Yāya dhīrā pamuccanti, jhāyino mārabandhanā..

''Na ve dhīrā pakubbanti, viditvā lokapariyāyaṃ.

Aññāya nibbutā dhīrā, tiṇṇā loke visattikanti.. Atha kho tā devatāyo pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''accayo no, bhante, accagamā yathābālaṃ yathāmūḷhaṃ yathāakusalaṃ [yathābālā yathāmūḷhā yathāakusalā (sabbattha)], yā mayaṃ bhagavantaṃ āsādetabbaṃ amaññimhā. Tāsaṃ no, bhante, Bhagavā accayaṃ accayato paṭiggaṇhātu āyatiṃ saṃvarāyāti. Atha kho Bhagavā sitaṃ pātvākāsi. Atha kho tā devatāyo bhiyyosomattāya ujjhāyantiyo vehāsaṃ abbhuggañchuṃ. Ekā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi :

''Accayaṃ desayantīnaṃ, yo ce na paṭigaṇhati.

Kopantaro dosagaru, sa veraṃ paṭimuñcatīti..

''Accayo ce na vijjetha, nocidhāpagataṃ [nocīdha apahataṃ (syā. kaṃ.), nocidhāpakataṃ (?)] siyā.

Verāni na ca sammeyyuṃ, kenīdha [verāni ca sammeyyuṃ, tenidha (sī.)] kusalo siyāti..

''Kassaccayā na vijjanti, kassa natthi apāgataṃ.

Ko na sammohamāpādi, ko ca dhīro [kodha dhīro (syā. kaṃ.)] sadā satoti..

''Tathāgatassa buddhassa, sabbabhūtānukampino.

Tassaccayā na vijjanti, tassa natthi apāgataṃ.

So na sammohamāpādi, sova [sodha (syā. kaṃ.)] dhīro sadā satoti..

''Accayaṃ desayantīnaṃ, yo ce na paṭigaṇhati.

Kopantaro dosagaru, sa veraṃ paṭimuñcati.

Taṃ veraṃ nābhinandāmi, paṭiggaṇhāmi voccayanti..

5. Ujjhānasaññisuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

35. Pañcame ujjhānasaññikāti ujjhānasaññī devaloko nāma pāṭiyekko natthi, imā pana devatā tathāgatassa catupaccayaparibhogaṃ nissāya ujjhāyamānā āgatā. Tāsaṃ kira evaṃ ahosi – ‘‘samaṇo gotamo bhikkhūnaṃ paṃsukūlacīvara-piṇḍiyālopa-rukkhamūlasenāsanapūtimuttabhesajjehi santosasseva pariyantakāritaṃ vaṇṇeti, sayaṃ pana pattuṇṇadukūla khomādīni paṇītacīvarāni dhāreti, rājārahaṃ uttamaṃ bhojanaṃ bhuñjati, devavimānakappāya gandhakuṭiyā varasayane sayati, sappinavanītādīni bhesajjāni paṭisevati, divasaṃ mahājanassa dhammaṃ deseti, vacanamassa aññato gacchati, kiriyā aññato’’ti ujjhāyamānā āgamiṃsu. Tena tāsaṃ dhammasaṅgāhakattherehi ‘‘ujjhānasaññikā’’ti nāmaṃ gahitaṃ.

Aññathā santanti aññenākārena bhūtaṃ. Nikaccāti nikatiyā vañcanāya, vañcetvāti attho. Kitavassevāti kitavo vuccati sākuṇiko. So hi agumbova samāno sākhapaṇṇādipaṭicchādanena gumbavaṇṇaṃ dassetvā upagate moratittirādayo sakuṇe māretvā dārabharaṇaṃ karoti. Iti tassa kitavassa imāya vañcanāya evaṃ vañcetvā sakuṇamaṃsabhojanaṃ viya kuhakassāpi paṃsukūlena attānaṃ paṭicchādetvā kathāchekatāya mahājanaṃ vañcetvā khādamānassa vicarato. Bhuttaṃ theyyena tassa tanti sabbopi tassa catupaccayaparibhogo theyyena paribhutto nāma hotīti devatā bhagavantaṃ sandhāya vadati. Parijānanti paṇḍitāti ayaṃ kārako vā akārako vāti paṇḍitā jānanti. Iti tā devatā ‘‘tathāgatāpi mayameva paṇḍitā’’ti maññamānā evamāhaṃsu.

Atha bhagavā nayidantiādimāha. Tattha yāyaṃ paṭipadā daḷhāti ayaṃ dhammānudhammapaṭipadā daḷhā thirā. Yāya paṭipadāya dhīrā paṇḍitā ārammaṇūpanijjhānena lakkhaṇūpanijjhānena cāti dvīhi jhānehi jhāyino mārabandhanā pamuccanti, taṃ paṭipadaṃ bhāsitamattena vā savanamattena vā okkamituṃ paṭipajjituṃ na sakkāti attho. Na ve dhīrā pakubbantīti dhīrā paṇḍitā viditvā lokapariyāyaṃ saṅkhāralokassa udayabbayaṃ ñatvā catusaccadhammañca aññāya kilesanibbānena nibbutā loke visattikaṃ tiṇṇā evaṃ na kubbanti, mayaṃ evarūpāni na kathemāti attho.

Pathaviyaṃ patiṭṭhahitvāti ‘‘ayuttaṃ amhehi kataṃ, akārakameva mayaṃ kārakavādena samudācarimhā’’ti lajjamānā mahābrahmani viya bhagavati gāravaṃ paccupaṭṭhapetvā aggikkhandhaṃ viya bhagavantaṃ durāsadaṃ katvā passamānā ākāsato otaritvā bhūmiyaṃ ṭhatvāti attho. Accayoti aparādho. No, bhante, accāgamāti amhe atikkamma abhibhavitvā pavatto. Āsādetabbanti ghaṭṭayitabbaṃ. Tā kira devatā bhagavantaṃ kāyena vācāyāti dvīhipi ghaṭṭayiṃsu. Tathāgataṃ avanditvā ākāse patiṭṭhamānā kāyena ghaṭṭayiṃsu, kitavopamaṃ āharitvā nānappakārakaṃ asabbhivādaṃ vadamānā vācāya ghaṭṭayiṃsu. Tasmā āsādetabbaṃ amaññimhāti āhaṃsu. Paṭiggaṇhātūti khamatu. Āyatiṃ saṃvarāyāti anāgate saṃvaraṇatthāya, puna evarūpassa aparādhassa dosassa akaraṇatthāya.

Sitaṃ pātvākāsīti aggadante dassento pahaṭṭhākāraṃ dassesi. Kasmā? Tā kira devatā na sabhāvena khamāpenti, lokiyamahājanañca sadevake loke aggapuggalaṃ tathāgatañca ekasadisaṃ karonti. Atha bhagavā ‘‘parato kathāya uppannāya buddhabalaṃ dīpetvā pacchā khamissāmī’’ti sitaṃ pātvākāsi. Bhiyyoso mattāyāti atirekappamāṇena. Imaṃ gāthaṃ abhāsīti kupito esa amhākanti maññamānā abhāsi.

Na paṭigaṇhatīti na khamati nādhivāseti. Kopantaroti abbhantare uppannakopo. Dosagarūti dosaṃ garuṃ katvā ādāya viharanto. Sa veraṃ paṭimuñcatīti so evarūpo gaṇṭhikaṃ paṭimuñcanto viya taṃ veraṃ attani paṭimuñcati ṭhapeti, na paṭinissajjatīti attho. Accayo ce na vijjethāti sace accāyikakammaṃ na bhaveyya. No cidhāpagataṃ siyāti yadi aparādho nāma na bhāveyya. Kenīdha kusalo siyāti yadi verāni na sammeyyuṃ, kena kāraṇena kusalo bhaveyya.

Kassaccayāti gāthāya kassa atikkamo natthi? Kassa aparādho natthi? Ko sammohaṃ nāpajjati? Ko niccameva paṇḍito nāmāti attho? Imaṃ kira gāthaṃ bhaṇāpanatthaṃ bhagavato sitapātukammaṃ. Tasmā idāni devatānaṃ buddhabalaṃ dīpetvā khamissāmīti tathāgatassa buddhassātiādimāha. Tattha tathāgatassāti tathā āgatoti evamādīhi kāraṇehi tathāgatassa. Buddhassāti catunnaṃ saccānaṃ buddhattādīhi kāraṇehi vimokkhantikapaṇṇattivasena evaṃ laddhanāmassa. Accayaṃ desayantīnanti yaṃ vuttaṃ tumhehi ‘‘accayaṃ desayantīnaṃ…pe… sa veraṃ paṭimuñcatī’’ti, taṃ sādhu vuttaṃ, ahaṃ pana taṃ veraṃ nābhinandāmi na patthayāmīti attho. Paṭiggaṇhāmi voccayanti tumhākaṃ aparādhaṃ khamāmīti. Pañcamaṃ.

Ý kiến bạn đọc