BẬC ĐẠI GIÁC VÀ VẾT THƯƠNG CHÂN _ Kinh Miếng Đá Vụn (Sakalikasuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,27) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 29.6.2021

BẬC ĐẠI GIÁC VÀ VẾT THƯƠNG CHÂN _ Kinh Miếng Đá Vụn (Sakalikasuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,27) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 29.6.2021

Thứ ba, 29/06/2021, 19:06 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 29.6.2021


BẬC ĐẠI GIÁC VÀ VẾT THƯƠNG CHÂN

Kinh Miếng Đá Vụn (Sakalikasuttaṃ)

CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM QUẦN TIÊN (S.i,27)

Không ai có thể đoạt mạng một bậc chánh đẳng chánh giác. Thế nhưng điều có thể xẩy ra là chúng sanh ác tánh có thể làm thân Phật chảy máu. Bài kinh nầy ghi lại sự việc Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) vì khát khao danh lợi cộng với oan trái nhiều đời đã lên núi Linh Thứu chọn một vị thế hiểm nghèo lăn đá định giết Phật. Tảng đá không rơi xuống mà kẹt lại. Tuy vậy một mãnh vụn nhỏ – như tên bài kinh nầy – văng trúng chân Bậc Đạo Sư tạo thành vết thương chảy máu. Đức Thế Tôn đã nhẫn chịu với cảm thọ khổ của thân với tâm an nhiên không phiền não. Hằng trăm chư thiên đến đảnh lễ Phật. Một số đã nói lên kệ ngôn xưng tán phong thái phi phàm của bậc Đại giác.

Evaṃ me sutaṃ

1) Như vầy tôi nghe.

ekaṃ samayaṃ Bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye.

Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), tại vườn Nai (Maddakucchi)

Tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya [sakkhalikāya (ka.)] khato hoti. Bhusā sudaṃ bhagavato vedanā vattanti sārīrikā vedanā dukkhā tibbā [tippā (sī. syā. kaṃ. pī.)] kharā kaṭukā asātā amanāpā tā sudaṃ Bhagavā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno.

2) Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.

Atha kho Bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññāpetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno.

3) Rồi Thế Tôn cho trải áo Sanghāti (Tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía hông bên phải như dáng điệu con sư tử, chân đặt trên chân, chánh niệm tỉnh giác.

Atha kho sattasatā satullapakāyikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ maddakucchiṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.

4) Rồi bảy trăm quần tiên Satullapakāyikā, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi :

5) Ðứng một bên, một vị Thiên đọc lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

''nāgo vata, bho, samaṇo gotamo nāgavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti.

-- Sa-môn Gotama thật là bậc Long tượng. Và với tư cách Long tượng, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, đau khổ, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi :

6) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

''sīho vata, bho, samaṇo gotamo sīhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti.

-- Sa-môn Gotama thật là bậc Sư tử. Và với tư cách Sư tử, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi :

7) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

''ājānīyo vata, bho, samaṇo gotamo ājānīyavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti.

-- Sa-môn Gotama thật là Lương tuấn mã. Và với tư cách Lương tuấn mã, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi :

8) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

''nisabho vata, bho, samaṇo gotamo nisabhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti.

-- Sa-môn Gotama thật là bậc Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu vương, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi :

9) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

''dhorayho vata, bho, samaṇo gotamo dhorayhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti.

-- Sa-môn Gotama thật là bậc Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên cường, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi :

10) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

''danto vata, bho, samaṇo gotamo dantavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti.

-- Sa-môn Gotama thật là một bậc Khéo điều phục. Và với tư cách là một bậc Khéo điều phục, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi :

11) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

''passa samādhiṃ subhāvitaṃ cittañca suvimuttaṃ, na cābhinataṃ na cāpanataṃ na ca sasaṅkhāraniggayhavāritagataṃ [sasaṅkhāraniggayhavāritavataṃ (sī. syā. kaṃ. pī.), sasaṅkhāraniggayhavārivāvataṃ (ka.)]. Yo evarūpaṃ purisanāgaṃ purisasīhaṃ purisaājānīyaṃ purisanisabhaṃ purisadhorayhaṃ purisadantaṃ atikkamitabbaṃ maññeyya kimaññatra adassanāti.

-- Hãy xem tâm của Ngài khéo được tu tập Thiền định và giải thoát, không có nổi lên, không có chìm xuống, mọi hành động được tác thành, không có ai kích thích. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại một Long tượng như vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy, một bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một bậc Nhiếp phục như vậy, trừ phi là một người mù.

''Pañcavedā sataṃ samaṃ, tapassī brāhmaṇā caraṃ.

Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ, hīnattharūpā na pāraṅgamā te..

''Taṇhādhipannā vatasīlabaddhā, lūkhaṃ tapaṃ vassasataṃ carantā.

Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ, hīnattharūpā na pāraṅgamā te..

Các vị Bà-la-môn,

Tinh thông năm Vệ-đà,

Dầu tu tập khổ hạnh,

Cho đến hàng trăm năm,

Tâm họ không có thể,

Chơn chánh được giải thoát.

Tự tánh quá hạ liệt,

Không đến bờ bên kia,

Bị khát ái chi phối,

Bị giới cấm trói buộc,

Dầu tu tập khổ hạnh,

Cho đến hàng trăm năm,

Tâm họ không có thể,

Chơn chánh được giải thoát.

Tự tánh quá hạ liệt,

Không đến bờ bên kia.

Ở đời không nhiếp phục,

Kiêu mạn cùng các dục,

Tâm không được an tịnh,

Không tu tập Thiền định.

Ở trong rừng cô độc,

Nhưng tâm tư phóng dật,

Vị ấy khó vượt khỏi,

Sự chinh phục tử thần.

Nhiếp phục được kiêu mạn,

Khéo tu tập Thiền định,

Tâm tư khéo an tịnh,

Giải thoát được viên mãn,

Ở trong rừng cô độc,

Tâm tư không phóng dật,

Vị ấy khéo vượt khỏi,

Sự chinh phục tử thần.

Nāgo: rồng, rắn, voi, bậc long tượng.

Sīho: sư tử, bậc sư vương

Ājānīyo: ngựa thuần, bậc lương tuấn mã

Dhorayho: bò mộng, trâu đầu đàn, bậc ngưu vương

Trong văn hoá Ấn Độ, và dường như cũng trong thế giới của quần tiên, một số con vật được xem là biểu tượng của những tánh hạnh cao quý. Lý do đơn giản là loài vật thuần tánh không đa dạng phức tạp như con người. Thí dụ: sự uy dũng của chúa sơn lâm luôn giống nhau. Trong nghệ thuật điêu khắc và hội hoạ điều nầy trở nên rõ nét. Trên đầu trụ đá vua A Dục (Asoka pillar) có những phù điêu như voi, tuấn mã, sư tử, ngưu vương đều là biểu tượng tôn vinh Đức Phật.

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

8. Sakalikasuttaṃ [Mūla]

38. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ  migadāye. Tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya [sakkhalikāya (ka.)] khato hoti. Bhusā sudaṃ bhagavato vedanā vattanti sārīrikā vedanā dukkhā tibbā [tippā (sī. syā. kaṃ. pī.)] kharā kaṭukā asātā amanāpā tā sudaṃ Bhagavā sato sampajāno  adhivāseti avihaññamāno. Atha kho Bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññāpetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno. Atha  kho sattasatā satullapakāyikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ maddakucchiṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi : ''nāgo  vata, bho, samaṇo gotamo nāgavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti. Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi : ''sīho vata, bho, samaṇo gotamo sīhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti. Atha  kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi : ''ājānīyo vata, bho, samaṇo gotamo ājānīyavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti. Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi : ''nisabho vata, bho, samaṇo gotamo nisabhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti. Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi : ''dhorayho vata, bho, samaṇo gotamo dhorayhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti. Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi : ''danto vata, bho, samaṇo  gotamo dantavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamānoti. Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi : ''passa samādhiṃ subhāvitaṃ cittañca suvimuttaṃ, na cābhinataṃ na  cāpanataṃ na  ca sasaṅkhāraniggayhavāritagataṃ [sasaṅkhāraniggayhavāritavataṃ (sī. syā. kaṃ. pī.), sasaṅkhāraniggayhavārivāvataṃ (ka.)]. Yo evarūpaṃ purisanāgaṃ purisasīhaṃ purisaājānīyaṃ  purisanisabhaṃ purisadhorayhaṃ purisadantaṃ atikkamitabbaṃ maññeyya kimaññatra adassanāti.

''Pañcavedā sataṃ samaṃ, tapassī brāhmaṇā caraṃ.

Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ, hīnattharūpā na pāraṅgamā te..

''Taṇhādhipannā vatasīlabaddhā, lūkhaṃ tapaṃ vassasataṃ carantā.

Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ, hīnattharūpā na pāraṅgamā te..

''Na mānakāmassa damo idhatthi, na monamatthi asamāhitassa.

Eko araññe viharaṃ pamatto, na maccudheyyassa tareyya pāranti..

''Mānaṃ pahāya susamāhitatto, sucetaso sabbadhi vippamutto.

Eko araññe viharamappamatto, sa maccudheyyassa tareyya pārantntti..

8. Sakalikasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

38. Aṭṭhame maddakucchisminti evaṃnāmake uyyāne. Tañhi ajātasattumhi kucchigate tassa mātarā – ‘‘ayaṃ mayhaṃ kucchigato gabbho rañño sattu bhavissati. Kiṃ me iminā’’ti? Gabbhapātanatthaṃ kucchi maddāpitā. Tasmā ‘‘maddakucchī’’ti saṅkhaṃ gataṃ. Migānaṃ pana abhayavāsatthāya dinnattā migadāyoti vuccati.

Tena kho pana samayenāti ettha ayaṃ anupubbikathā – devadatto hi ajātasattuṃ nissāya dhanuggahe ca dhanapālakañca payojetvāpi tathāgatassa jīvitantarāyaṃ kātuṃ asakkonto ‘‘sahattheneva māressāmī’’ti gijjhakūṭapabbataṃ abhiruhitvā mahantaṃ kūṭāgārappamāṇaṃ silaṃ ukkhipitvā, ‘‘samaṇo gotamo cuṇṇavicuṇṇo hotū’’ti pavijjhi. Mahāthāmavā kiresa pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhāreti. Aṭṭhānaṃ kho panetaṃ, yaṃ buddhānaṃ parūpakkamena jīvitantarāyo bhaveyyāti taṃ tathāgatassa sarīrābhimukhaṃ āgacchantaṃ ākāse aññā silā uṭṭhahitvā sampaṭicchi. Dvinnaṃ silānaṃ sampahārena mahanto pāsāṇassa sakalikā uṭṭhahitvā bhagavato piṭṭhipādapariyantaṃ abhihani, pādo mahāpharasunā pahato viya samuggatalohitena lākhārasamakkhito viya ahosi. Bhagavā uddhaṃ ulloketvā devadattaṃ etadavoca – ‘‘bahu tayā moghapurisa, apuññaṃ pasutaṃ, yo tvaṃ paduṭṭhacitto vadhakacitto tathāgatassa lohitaṃ uppādesī’’ti. Tato paṭṭhāya bhagavato aphāsu jātaṃ. Bhikkhū cintayiṃsu – ‘‘ayaṃ vihāro ujjaṅgalo visamo, bahūnaṃ khattiyādīnañceva pabbajitānañca anokāso’’ti. Te tathāgataṃ mañcasivikāya ādāya maddakucchiṃ nayiṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hotī’’ti.

Bhusāti balavatiyo. Sudanti nipātamattaṃ. Dukkhanti sukhapaṭikkhepo. Tibbāti bahalā. Kharāti pharusā. Kaṭukāti tikhiṇā. Asātāti amadhurā. Na tāsu mano appeti, na tā manaṃ appāyanti vaḍḍhentīti amanāpā. Sato sampajānoti vedanādhivāsanasatisampajaññena samannāgato hutvā. Avihaññamānoti apīḷiyamāno, samparivattasāyitāya vedanānaṃ vasaṃ agacchanto.

Sīhaseyyanti ettha kāmabhogiseyyā, petaseyyā, sīhaseyyā, tathāgataseyyāti catasso seyyā. Tattha ‘‘yebhuyyena, bhikkhave, kāmabhogī sattā vāmena passena sentī’’ti ayaṃ kāmabhogiseyyā. Tesu hi yebhuyyena dakkhiṇapassena sayāno nāma natthi. ‘‘Yebhuyyena, bhikkhave, petā uttānā sentī’’ti ayaṃ petaseyyā. Appamaṃsalohitattā hi aṭṭhisaṅghāṭajaṭitā ekena passena sayituṃ na sakkonti, uttānāva senti. ‘‘Yebhuyyena, bhikkhave, sīho migarājā naṅguṭṭhaṃ antarasatthimhi anupakkhipitvā dakkhiṇena passena setī’’ti ayaṃ sīhaseyyā. Tejussadattā hi sīho migarājā dve purimapāde ekasmiṃ, ‘pacchimapāde ekasmiṃ ṭhāne ṭhapetvā naṅguṭṭhaṃ antarasatthimhi pakkhipitvā purimapādapacchimapādanaṅguṭṭhānaṃ ṭhitokāsaṃ sallakkhetvā dvinnaṃ purimapādānaṃ matthake sīsaṃ ṭhapetvā sayati, divasampi sayitvā pabujjhamāno na utrasanto pabujjhati, sīsaṃ pana ukkhipitvā purimapādādīnaṃ ṭhitokāsaṃ sallakkheti’. Sace kiñci ṭhānaṃ vijahitvā ṭhitaṃ hoti, ‘‘nayidaṃ tuyhaṃ jātiyā, na sūrabhāvassa anurūpa’’nti anattamano hutvā tattheva sayati, na gocarāya pakkamati. Avijahitvā ṭhite pana ‘‘tuyhaṃ jātiyā ca sūrabhāvassa ca anurūpamida’’nti haṭṭhatuṭṭho uṭṭhāya sīhavijambhitaṃ vijambhitvā kesarabhāraṃ vidhunitvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ naditvā gocarāya pakkamati. Catutthajjhānaseyyā pana ‘‘tathāgataseyyā’’ti vuccati. Tāsu idha sīhaseyyā āgatā. Ayañhi tejussadairiyāpathattā uttamaseyyā nāma.

Pāde pādanti dakkhiṇapāde vāmapādaṃ. Accādhāyāti atiādhāya, īsakaṃ atikkamma ṭhapetvā. Gopphakena hi gopphake jāṇunā vā jāṇumhi saṅghaṭṭiyamāne abhiṇhaṃ vedanā uppajjati, cittaṃ ekaggaṃ na hoti, seyyā aphāsukā hoti. Yathā na saṅghaṭṭeti, evaṃ atikkamma ṭhapite vedanā nuppajjati, cittaṃ ekaggaṃ hoti, seyyā phāsu hoti. Tasmā evaṃ nipajji. Sato sampajānoti sayanapariggāhakasatisampajaññena samannāgato. ‘‘Uṭṭhānasañña’’nti panettha na vuttaṃ, gilānaseyyā hesā tathāgatassa.

Sattasatāti imasmiṃ sutte sabbāpi tā devatā gilānaseyyaṭṭhānaṃ āgatā. Udānaṃ udānesīti gilānaseyyaṃ āgatānaṃ domanassena bhavitabbaṃ siyā. Imāsaṃ pana tathāgatassa vedanādhivāsanaṃ disvā, ‘‘aho buddhānaṃ mahānubhāvatā! Evarūpāsu nāma vedanāsu vattamānāsu vikāramattampi natthi, sirīsayane alaṅkaritvā ṭhapitasuvaṇṇarūpakaṃ viya aniñjamānena kāyena nipanno, idānissa adhikataraṃ mukhavaṇṇo virocati, ābhāsampanno puṇṇacando viya sampati vikasitaṃ viya ca aravindaṃ assa mukhaṃ sobhati, kāyepi vaṇṇāyatanaṃ idāni susammaṭṭhakañcanaṃ viya vippasīdatī’’ti udānaṃ udapādi.

Nāgo vata bhoti, ettha bhoti dhammālapanaṃ. Balavantaṭṭhena nāgo. Nāgavatāti nāgabhāvena. Sīho vatātiādīsu asantāsanaṭṭhena sīho. Byattaparicayaṭṭhena kāraṇākāraṇajānanena vā ājānīyo. Appaṭisamaṭṭhena nisabho. Gavasatajeṭṭhako hi usabho, gavasahassajeṭṭhako vasabho, gavasatasahassajeṭṭhako nisabhoti vuccati. Bhagavā pana appaṭisamaṭṭhena āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti. Tenevatthena idha ‘‘nisabho’’ti vutto. Dhuravāhaṭṭhena dhorayho. Nibbisevanaṭṭhena danto.

Passāti aniyamitāṇatti. Samādhinti arahattaphalasamādhiṃ. Suvimuttanti phalavimuttiyā suvimuttaṃ. Rāgānugataṃ pana cittaṃ abhinataṃ nāma hoti, dosānugataṃ apanataṃ. Tadubhayapaṭikkhepena na cābhinataṃ na cāpanatanti āha. Na ca sasaṅkhāraniggayhavāritagatanti na sasaṅkhārena sappayogena kilese niggahetvā vāritavataṃ, kilesānaṃ pana chinnattā vataṃ phalasamādhinā samāhitanti attho. Atikkamitabbanti viheṭhetabbaṃ ghaṭṭetabbaṃ. Adassanāti aññāṇā. Aññāṇī hi andhabālova evarūpe satthari aparajjheyyāti devadattaṃ ghaṭṭayamānā vadanti.

Pañcavedāti itihāsapañcamānaṃ vedānaṃ dhārakā. Sataṃ samanti vassasataṃ. Tapassīti tapanissitakā hutvā. Caranti carantā. Na sammāvimuttanti sacepi evarūpā brāhmaṇā vassasataṃ caranti, cittañca nesaṃ sammā vimuttaṃ na hoti. Hīnattarūpā na pāraṃ gamā teti hīnattasabhāvā te nibbānaṅgamā na honti. ‘‘Hīnattharūpā’’tipi pāṭho, hīnatthajātikā parihīnatthāti attho. Taṇhādhipannāti taṇhāya ajjhotthaṭā. Vatasīlabaddhāti ajavatakukkuravatādīhi ca vatehi tādiseheva ca sīlehi baddhā. Lūkhaṃ tapanti pañcātapatāpanaṃ kaṇṭakaseyyādikaṃ tapaṃ. Idāni sā devatā sāsanassa niyyānikabhāvaṃ kathentī na mānakāmassātiādimāha. Taṃ vuttatthamevāti. Aṭṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc