Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ ĐÃ LÀM THÌ LÀM CHO TỐT _ Kinh Tāyana (Tāyanasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ ĐÃ LÀM THÌ LÀM CHO TỐT _ Kinh Tāyana (Tāyanasuttaṃ)

Thứ bảy, 16/10/2021, 18:14 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 16.10.2021


ĐÃ LÀM THÌ LÀM CHO TỐT

Kinh Tāyana (Tāyanasuttaṃ)

(CHƯƠNG II. TƯƠNG ƯNG THIÊN TỬ, PHẨM THỨ NHẤT) (S.i,49)

Có những việc trong cuộc sống không nên nữa vời như nấu cơm mà không đủ lửa thì kể như bỏ không ăn được. Đời tu cũng vậy. Sự lôi kéo bên ngoài và dục niệm trong lòng là giòng chảy khó cưỡng. Muốn cắt đoạn giòng chảy không thể không tận lực bình sinh. Bài kệ nầy nói lên tâm niệm cần có của một người xuất gia do một vị trời nói nhưng được Đức Phật chuẩn thuận và khuyên chư tăng nên xem đó làm tâm niệm. Đây là điểm rất đáng nói: lời hay ý đẹp dù ai nói cũng đáng để khắc cốt ghi tâm. Tại các xứ Phật giáo ngày nay bài kệ nầy cũng là trong những bài kinh nhật tụng của chư Tăng.

Bản dịch của HT Thích Minh Châu Bản hiệu đính

Sāvatthinidānaṃ. Atha kho tāyano devaputto purāṇatitthakaro abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho tāyano devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi –

1) Tại Sāvatthī Rồi Thiên tử Tāyana, trước kia thuộc ngoại đạo sư, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Tāyana nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:

"Chinda sotaṃ parakkamma,

kāme panuda brāhmaṇa;

Nappahāya munī kāme,

nekattamupapajjati.

"Kayirā ce kayirāthenaṃ,

daḷhamenaṃ parakkame;

Sithilo hi paribbājo,

bhiyyo ākirate rajaṃ.

"Akataṃ dukkaṭaṃ seyyo,

pacchā tapati dukkaṭaṃ;

Katañca sukataṃ seyyo,

yaṃ katvā nānutappati.

"Kuso yathā duggahito,

hatthamevānukantati;

Sāmaññaṃ dupparāmaṭṭhaṃ,

nirayāyūpakaḍḍhati.

"Yaṃ kiñci sithilaṃ kammaṃ,

saṃkiliṭṭhañca yaṃ vataṃ;

Saṅkassaraṃ brahmacariyaṃ,

na taṃ hoti mahapphala’’nti.

2) (Thiên tử Tāyana)

" Ôi này Bà-la-môn,

Tinh tấn, cắt dòng nước,

Ðoạn trừ và tiêu diệt,

Mọi tham đắm dục vọng.

Ẩn sĩ không đoạn dục,

Không chứng được nhứt tâm.

Nếu làm việc phải làm,

Cần kiên trì, tinh tấn.

Xuất gia, nếu biếng nhác,

Càng tung vãi bụi trần.

Không làm, hơn làm dở,

Làm dở sau khổ đau.

Ðã làm nên làm tốt,

Làm tốt không khổ đau.

Như nắm vụng lá cỏ,

Có thể bị đứt tay.

Sa-môn hạnh vụng tu,

Kéo đến cõi địa ngục.

Mọi sở hành biếng nhác,

Mọi hạnh tu ô nhiễm,

Ác hạnh trong Phạm hạnh,

Không đưa đến quả lớn.

2) (Thiên tử Tāyana)

"Ra sức đoạn giòng chảy,

Phạm chí diệt tham cầu,

Ẩn sĩ không đoạn dục,

Tu hoài không tới đâu.

"Muốn làm điều nên làm,

Phải kiên trì phấn đấu,

Xuất gia không tinh cần,

Chỉ vấy thêm bụi bẩn.

"Làm dở thà đừng làm,

Làm sai phải hối hận,

Đã làm hãy làm tốt,

Làm đúng không ăn năn.

"Cỏ kusa vụng nắm,

Sẽ khiến tay bị đứt,

Đời sa môn vụng tu,

Sẽ dẫn đến địa ngục.

"Những ai sống chễnh mảng,

Với giới hạnh nhiễm ô,

Phạm hạnh đáng nghi ngờ,

Quả có gì đáng nói.

Idamavoca tāyano devaputto; idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti.

3) Thiên tử Tāyana nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.

Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi –

4) Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, liền gọi các Tỷ-kheo.

‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ tāyano nāma devaputto purāṇatitthakaro abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, tāyano devaputto mama santike imā gāthāyo abhāsi –

5) -- Này các Tỷ-kheo, đêm nay Thiên tử Tāyana, trước kia thuộc ngoại đạo sư, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Tāyana nói lên bài kệ này trước mặt Ta:

"Chinda sotaṃ parakkamma,

kāme panuda brāhmaṇa;

Nappahāya munī kāme,

nekattamupapajjati.

"Kayirā ce kayirāthenaṃ,

daḷhamenaṃ parakkame;

Sithilo hi paribbājo,

bhiyyo ākirate rajaṃ.

"Akataṃ dukkaṭaṃ seyyo,

pacchā tapati dukkaṭaṃ;

Katañca sukataṃ seyyo,

yaṃ katvā nānutappati.

"Kuso yathā duggahito,

hatthamevānukantati;

Sāmaññaṃ dupparāmaṭṭhaṃ,

nirayāyūpakaḍḍhati.

"Yaṃ kiñci sithilaṃ kammaṃ,

saṃkiliṭṭhañca yaṃ vataṃ;

Saṅkassaraṃ brahmacariyaṃ,

na taṃ hoti mahapphala’’nti.

6) (Thế Tôn)

"Ôi này Bà-la-môn

Tinh tấn cắt dòng nước,

Ðoạn trừ và tiêu diệt,

Mọi tham đắm dục vọng.

Ẩn sĩ không đoạn dục,

Không chứng được nhứt tâm.

Nếu làm việc khó làm,

Cần kiên trì tinh tấn,

Xuất gia nếu biếng nhác,

Càng tung vãi bụi trần.

Không làm, hơn làm dở,

Làm dở sau khổ đau.

Ðã làm nên làm tốt,

Làm tốt không khổ đau.

Như nắm vụng lá cỏ,

Có thể bị đứt tay,

Sa-môn hạnh vụng tu,

Kéo đến cõi địa ngục.

Mọi sở hành biếng nhác,

Mọi hạnh tu ô nhiễm,

Ác hạnh trong Phạm hạnh,

Không đưa đến quả lớn.

6) (Thế Tôn)

"Ra sức đoạn giòng chảy,

Phạm chí diệt tham cầu,

Ẩn sĩ không đoạn dục,

Tu hoài không tới đâu.

"Muốn làm điều nên làm,

Phải kiên trì phấn đấu,

Xuất gia không tinh cần,

Chỉ vấy thêm bụi bẩn.

"Làm dở thà đừng làm,

Làm sai phải hối hận,

Đã làm hãy làm tốt,

Làm đúng không ăn năn.

"Cỏ kusa vụng nắm,

Sẽ khiến tay bị đứt,

Đời sa môn vụng tu,

Sẽ dẫn đến địa ngục.

"Những ai sống chễnh mảng,

Với giới hạnh nhiễm ô,

Phạm hạnh đáng nghi ngờ,

Quả có gì đáng nói.

‘‘Idamavoca, bhikkhave, tāyano devaputto, idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi. Uggaṇhātha, bhikkhave, tāyanagāthā; pariyāpuṇātha, bhikkhave, tāyanagāthā; dhāretha, bhikkhave, tāyanagāthā. Atthasaṃhitā, bhikkhave, tāyanagāthā ādibrahmacariyikā’’ti.

7) Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Tāyana nói như vậy. Nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta và biến mất tại chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy đọc bài kệ của Tāyana. Này các Tỷ-kheo, hãy học thuộc lòng bài kệ của Tāyana. Này các Tỷ-kheo, bài kệ của Tāyana có đầy đủ nghĩa lợi và chính là căn bản của Phạm hạnh.

Chinda sotaṁ parakkamma Nỗ lực, đoạn giòng chảy
kāme panuda brāhmaṇa Phạm chí diệt dục vọng
Nappahāya munī kāme Ẩn sĩ không đoạn dục
nekattamupapajjati Không đạt được nhất thể
Kayirā ce kayirāthenaṁ Muốn làm điều nên làm
daḷamenaṁ parakkame Cần kiên trì phấn đấu
Sithilo hi paribbājo Xuất gia không tinh cần
bhiyyo ākirate rajaṁ Chỉ vấy thêm bụi bẩn
Akataṁ dukkaṭaṁ seyyo Làm dở thà đừng làm
pacchā tapati dukkaṭaṁ Làm rồi phải hối hận
Katañca sukataṁ seyyo Đã làm hãy làm tốt
yaṁ katvā nānutappati Làm rồi không ăn năn
Kuso yathā duggahito Cỏ kusa vụng nắm
hatthamevānukantati Thì sẽ cắt đứt tay
Sāmaññaṁ dupparāmaṭṭhaṁ Đời sa môn vụng tu
nirayāyūpakaḍḍhati Sẽ dẫn đến địa ngục
Yaṁ kiñci sithilaṁ kammaṁ Với ai sống chễnh mảng
saṅkiliṭṭhañca yaṁ vataṁ Giới hạnh nhiễm ô
Saṅkassaraṁ brahmacariyaṁ Phạm hạnh đáng nghi ngờ
na taṁ hoti mahapphalan 'ti Không kết quả đáng kể

Theo Sớ giải, thiên tử Tāyana kiếp trước là một ngoại đạo (tittha) nhưng do tin nghiệp báo, một trường hợp hiếm hoi, nên được sanh thiên. Khi nhìn lại kiếp trước vị nầy phát tâm kính ngưỡng Đức Phật và đến bạch Đức Thế Tôn về đời sống phạm hạnh.

Từ ngữ parakkamma chỉ cho sự phát tâm dõng mãnh gồm ba giai đoạn: muốn làm, cố làm và quyết làm (ārambhadhātu, nikkamadhātu, parakkamadhātu).

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Hiệu đính và biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

8. Tāyanasuttaṃ [Mūla]

89. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho tāyano devaputto purāṇatitthakaro abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho tāyano devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi –

‘‘Chinda sotaṃ parakkamma, kāme panuda brāhmaṇa;

Nappahāya munī kāme, nekattamupapajjati.

‘‘Kayirā ce kayirāthenaṃ, daḷhamenaṃ parakkame; Sithilo hi paribbājo, bhiyyo ākirate rajaṃ.

‘‘Akataṃ dukkaṭaṃ [dukkataṃ (sī. pī.)] seyyo, pacchā tapati dukkaṭaṃ; Katañca sukataṃ seyyo, yaṃ katvā nānutappati.

‘‘Kuso yathā duggahito, hatthamevānukantati; Sāmaññaṃ dupparāmaṭṭhaṃ, nirayāyūpakaḍḍhati.

‘‘Yaṃ kiñci sithilaṃ kammaṃ, saṃkiliṭṭhañca yaṃ vataṃ; Saṅkassaraṃ brahmacariyaṃ, na taṃ hoti mahapphala’’nti.

Idamavoca tāyano devaputto; idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti.

Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ tāyano nāma devaputto purāṇatitthakaro abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, tāyano devaputto mama santike imā gāthāyo abhāsi –

‘‘Chinda sotaṃ parakkamma, kāme panuda brāhmaṇa; Nappahāya munī kāme, nekattamupapajjati.

‘‘Kayirā ce kayirāthenaṃ, daḷhamenaṃ parakkame; Sithilo hi paribbājo, bhiyyo ākirate rajaṃ.

‘‘Akataṃ dukkaṭaṃ seyyo, pacchā tapati dukkaṭaṃ; Katañca sukataṃ seyyo, yaṃ katvā nānutappati.

‘‘Kuso yathā duggahito, hatthamevānukantati; Sāmaññaṃ dupparāmaṭṭhaṃ, nirayāyūpakaḍḍhati.

‘‘Yaṃ kiñci sithilaṃ kammaṃ, saṃkiliṭṭhañca yaṃ vataṃ; Saṅkassaraṃ brahmacariyaṃ, na taṃ hoti mahapphala’’nti.

‘‘Idamavoca, bhikkhave, tāyano devaputto, idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi. Uggaṇhātha, bhikkhave, tāyanagāthā; pariyāpuṇātha, bhikkhave, tāyanagāthā; dhāretha, bhikkhave, tāyanagāthā. Atthasaṃhitā, bhikkhave, tāyanagāthā ādibrahmacariyikā’’ti.

8. Tāyanasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

89. Aṭṭhame purāṇatitthakaroti pubbe titthakaro. Ettha ca titthaṃ nāma dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo, titthakaro nāma tāsaṃ uppādako satthā. Seyyathidaṃ nando, vaccho, kiso, saṃkicco. Purāṇādayo pana titthiyā nāma. Ayaṃ pana diṭṭhiṃ uppādetvā kathaṃ sagge nibbattoti? Kammavāditāya. Esa kira uposathabhattādīni adāsi, anāthānaṃ vattaṃ paṭṭhapesi, patissaye akāsi, pokkharaṇiyo khaṇāpesi, aññampi bahuṃ kalyāṇaṃ akāsi. So tassa nissandena sagge nibbatto, sāsanassa pana niyyānikabhāvaṃ jānāti. So tathāgatassa santikaṃ gantvā sāsanānucchavikā vīriyappaṭisaṃyuttā gāthā vakkhāmīti āgantvā chinda sotantiādimāha.

Tattha chindāti aniyamitaāṇatti. Sotanti taṇhāsotaṃ. Parakkammāti parakkamitvā vīriyaṃ katvā. Kāmeti kilesakāmepi vatthukāmepi. Panudāti nīhara. Ekattanti jhānaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – kāme ajahitvā muni jhānaṃ na upapajjati, na paṭilabhatīti attho. Kayirā ce kayirāthenanti yadi vīriyaṃ kareyya, kareyyātha, taṃ vīriyaṃ na osakkeyya. Daḷhamenaṃ parakkameti daḷhaṃ enaṃ kareyya. Sithilo hi paribbājoti sithilagahitā pabbajjā. Bhiyyo ākirate rajanti atirekaṃ upari kilesarajaṃ ākirati. Akataṃ dukkaṭaṃ seyyoti dukkaṭaṃ akatameva seyyo. Yaṃ kiñcīti na kevalaṃ dukkaṭaṃ katvā katasāmaññameva, aññampi yaṃ kiñci sithilaṃ kataṃ evarūpameva hoti. Saṃkiliṭṭhanti dukkarakārikavataṃ. Imasmiṃ hi sāsane paccayahetu samādinnadhutaṅgavataṃ saṃkiliṭṭhameva. Saṅkassaranti saṅkāya saritaṃ, ‘‘idampi iminā kataṃ bhavissati, idampi iminā’’ti evaṃ āsaṅkitaparisaṅkitaṃ. Ādibrahmacariyikāti maggabrahmacariyassa ādibhūtā pubbapadhānabhūtā. Aṭṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc