Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXVI. Phẩm Bà La Môn (Brahmaṇavagga) _ Kệ số 4 (dhp 386)

Chủ nhật, 05/01/2025, 05:42 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học chủ nhật 15.12.2024

XXVI

Phẩm Bà La Môn

(Brahmaṇavagga)

XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 4 (dhp 386)

Chánh văn:

4. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ

Katakiccaṃ anāsavaṃ

Uttamatthaṃ anuppattaṃ

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

(dhp 386)

Thích văn:

Jhāyiṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ jhāyī] người chứng thiền, thiền giả.

Virajamāsīnaṃ [hợp âm virajaṃ + āsīnaṃ]

Virajaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ viraja (vi + raja)] ly trần, sạch bụi, không còn bụi bẩn.

Āsīnaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ āsīna (quá khứ phân từ của động từ āsati)] đã ngồi, đã trú yên.

Katakiccaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể katakicca (kata + kicca)] có phận sự đã làm xong, đã hoàn tất phận sự.

Anāsavaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể anāsava (an + āsava)] vô lậu, không còn lậu hoặc.

Uttamatthaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể uttamattha (uttama + attha)] mục đích tối thượng.

Anuppattaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ anuppatta (quá khứ phân từ của động từ anupāpuṇāti)] đạt đến, đắc được.

Việt văn:

4. Tu thiền, trú ly trần

Phận sự xong, vô lậu

Đạt được đích tối thượng

Ta gọi ấy Phạm Chí

(pc 386)

Chuyển văn:

4. Jhāyiṃ virajaṃ āsīnaṃ katakiccaṃ anāsavaṃ uttamatthaṃ anuppattaṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ taṃ brūmi.

Người tu thiền, trú ly trần, hoàn tất phận sự, vô lậu hoặc, đã đạt đến đích tối thượng, ta gọi người ấy là vị Bà La Môn.

Duyên sự:

Kệ ngôn này, đức Phật thuyết khi ngài trú ở Jetavanavihāra, gần thành Sāvatthi, do chuyện người Bà La Môn nọ.

Người Bà La Môn ấy đã nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama gọi các đệ tử của mình là vị Bà La Môn, ta cũng là Bà La Môn theo chủng sanh và dòng tộc, có lẽ ngài cũng sẽ gọi ta như vậy!”

Người Bà La Môn ấy đi đến đức Phật. Khi nói chuyện với ông ta, đức Phật chỉ gọi tên, ông ấy mới hỏi ngài: “Tôi cũng có sanh tộc Bà La Môn, sao ngài không gọi tôi là vị Bà La Môn như ngài vẫn gọi các đệ tử của ngài?”

Đức Phật đáp: “Ta không gọi vị Bà La Môn theo chủng sanh dòng tộc, mà ta gọi như vậy là gọi vị A La Hán đã đến mục đích tối thượng.”

Nói xong, đức Phật thuyết lên bài kệ: Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ…v.v… tamahaṃ brūmi brāhmaṇan’ti.

Dứt kệ ngôn, người Bà La Môn ấy đã trú vào quả vị Nhập Lưu (sotāpattiphala).

Lý giải:

Một lần nữa, danh từ Bà La Môn (brāmaṇa) được đức Phật dùng để chỉ cho vị A La Hán, nhưng ở mỗi kệ ngôn đức Phật mô tả hành trạng của vị A La Hán khác nhau. Vì sao vậy? Vì tùy vào căn cơ của người nghe.

Trong bài kệ này, vị A La Hán là vị chứng thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassanā), nên gọi là “người tu thiền” (jhāyiṃ).

Vị A La Hán là vị thích sống một mình trong khu rừng, với tâm ly trần không nhiễm dục trần. Nên gọi là trú ly trần (visajamāsīnaṃ).

Vị A La Hán đã chứng nghiệm mười sáu chức năng của tứ đế bằng bát thánh đạo. Nên gọi là đã hoàn tất phận sự (katakiccaṃ).

Vị A La Hán không còn bốn lậu hoặc, bốn lậu hoặc đã đoạn tận. Nên gọi là vô lậu (anāsavaṃ).

Vị A La Hán đã đạt đến mục đích tối thượng là quả vị Arahatta, quả vị cao nhất trong bốn quả vị: Sotāpatti, sakadāgāmi, anāgāmi và arahatta.

Câu nói: “Taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ - Ta gọi vị ấy là Bà La Môn.”, nghĩa là ngài gọi vị A La Hán là bậc Phạm Chí./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc