- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: PĀLI PHÁP CÚ
Bài học thứ năm 24.4.2025
XXVI
Phẩm Bà La Môn
(Brāhmaṇavagga)
XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 41 (dhp 423)
Chánh văn:
41. Pubbenivāsaṃ yo vedi
saggāpāyañca passati
atho jātikkhayaṃ patto
abhiññāvosito muni
sabbovositavosānaṃ
tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
(dhp 423)
Thích văn:
Pubbenivāsaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể pubbenivāsa (pubbe + nivāsa)] đời sống trước, tiền kiếp.
Yo [chủ cách, số ít, nam tính, quan hệ đại từ ya] ai, người nào.
Vedi [động từ quá khứ, hiện khứ cách, parassapada, ngôi III, “
Saggāpāyañca [hợp âm saggāpāyaṃ ca].
Saggāpāyaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể saggāpāya (sagga + apāya)] cảnh trời và cõi khổ, thiên giới và đọa xứ.
Passati [động từ hiện, tiến hành cách, parassapada, ngôi III, số ít, “
Atho [trạng từ] và rồi, rồi thì.
Jātikkhayaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể jātikkhaya (jāti + khaya)] sự đoạn tận sanh hữu, sanh tận.
Patto [chủ cách, số ít, nam tính, tính từ patta (quá khứ phân từ của động từ pāpuṇāti)] đã đạt đến, đã chứng đắc.
Abhiññāvosito [chủ cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể abhiññāvosita (abhiññā + vosita)] đã viên thành thắng trí.
Muni [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ muni] hiền sĩ, minh triết, mâu ni.
Sabbavositavosānaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể sabbavositavosāna (“Sabba + vosita” + vosāna)] sự kết thúc mọi việc đã thành mãn, xong việc đã thành.
Tamahaṃ [hợp âm taṃ ahaṃ]
Tam [đối cách, số ít, nam tính, chỉ thị đại từ ta] nó, người ấy.
Ahaṃ [chủ cách, số ít, vố tính, nhân xưng đại từ amha] tôi, ta.
Brūmi [động từ hiện tại, tiến hành cách, parassapada, ngôi I, số ít, “
Việt văn:
41. Ai biết được đời trước,
thấy thiên giới đọa xứ,
chứng đạt sanh đoạn tận,
thắng trí thành, hiền sĩ,
kết thúc mọi thành tựu
ta gọi ấy phạm chí.
(pc 423)
Chuyển văn:
41. Yo pubbenivāsaṃ vedi saggāpāyaṃ ca passati atho jātikkhayaṃ patto abhiññāvosito munī taṃ sabbavositavosānaṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ brūmi.
Người nào biết được đời sống trước, thấy rõ cảnh trời và các đọa xứ, đã đạt đến sự đoạn tận sanh hữu, là bậc hiền sĩ đã viên thành thắng trí_ta gọi người kết thúc mọi thành tựu ấy là vị bà la môn.
Duyên sự:
Bài kệ này, đức Phật thuyết ở thành Sāvatthi, khi Ngài trú tại chùa Jetavana, do chuyện người bà la môn Devahita.
Một lúc nọ, đức Thế Tôn bị bệnh trúng gió, Ngài đã phái thị giả là tôn giả Upavāṇa (thị giả trước Ngài Ānanda), đến nhà bà la môn Devahita để xin nước nóng.
Tôn giả Upavāṇa đi đến, sau khi trình bày tình trạng bệnh của bậc Đạo sư, đã xin nước nóng. Người bà la môn nghe thế, phát tâm hoan hỷ: “Thật lợi lạc thay cho ta việc mà đức Chánh đẳng giác gửi đệ tử đến xin nước nóng”. Ông ta bèn sai người gánh nước nóng đến chùa, đồng thời dâng tôn giả một giỏ đựng mật mía.
Tôn giả nhận mật mía và trở về chùa, pha nước nóng cho đức Thế Tôn tắm và lấy nước nóng pha mật mía dâng cho Ngài dùng, tức thời, bệnh của đức Thế Tôn dứt khỏi.
Người bà la môn ấy đã suy nghĩ: “vật thí cho đến ai được quả lớn? Ta sẽ hỏi bậc Đạo sư”. Rồi ông ta đến chùa gặp đức Thế Tôn và hỏi bằng lời kệ rằng:
Cho vật thí chỗ nào,
Được cho có quả lớn?
Hiến tế như thế nào
Quả cúng dường thành tựu?
Đức Thế Tôn trả lời: “Sự bố thí đến vị bà la môn như vầy được quả lớn”. Rồi Ngài thuyết lên bài kệ: Pubbenivāsaṃ yovedi…v.v…tamahaṃ brūmi brāhmaṇan’ ti.
Khi được nghe nói vậy, bà la môn Devahita đã tán dương đức Phật và xin quy y tam bảo thành một cận sự nam của đức Phật.
Lý giải:
Đức Phật thấy được duyên lành của người bà la môn, dù không đắc được đạo quả nhưng cũng thành tựu niềm tin quy y tam bảo, nên khi người bà la môn ấy hỏi Phật: “Cho vật thí chỗ nào, được cho có quả lớn? Hiến tế như thế nào, quả cúng dường thành tựu ?”. Đức Phật mới dùng danh từ bà la môn để thuyết lên cho ông hoan hỷ: “Sự bố thí, đến vị bà la môn như vầy được quả lớn” và để định nghĩa danh từ bà la môn theo khía cạnh chánh pháp, Ngài đã nói lên bài kệ này.
Câu nói: Ai biết được đời trước (pubbenivāsaṃ yo vedi) nghĩa là người nào đắc túc mạng thông hiểu rõ kiếp ống quá khứ của mình.
Câu nói: Thấy được thiên giới đọa xứ (saggāpāyañca passati) nghĩa là đắc thiên nhãn thông thấy được hai mươi sáu cõi thiên và bốn cõi khổ.
Câu nói: Chứng đạt sanh đoạn tận (jātikkhayaṃ patto) nghĩa là đạt đến quả vị A la hán, đoạn tận sanh hữu.
Câu nói: Thắng trí viên thành (Abiññāvosito), theo chú giải có nghĩa là vị đã viên thành thắng trí tức thắng tri pháp cần thắng tri, biến tri pháp cần biến tri đoạn trừ pháp cần đoạn trừ, tác chứng pháp cần tác chứng.
Câu nói: Hiền sĩ (munī) nghĩa là bậc đã đạt được trạng thái sáng suốt bằng tuệ lậu tận.
Ta gọi người ấy là vị bà la môn (taṃ ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ), đây là câu kết luận của đức Phật. Người ấy (taṃ) là người kết thúc mọi thành tựu (sabbavositavosānaṃ), nghĩa là người đã chấm dứt mọi phiền não, đã chứng đạo tuệ A la hán, đã thành mãn đời sống phạm hạnh.
Dứt phẩm hai mươi sáu
Phẩm bà la môn
Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.