Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXVI. Phẩm Bà La Môn (Brahmaṇavagga) _ Kệ số 26 (dhp 408)

Thứ năm, 06/03/2025, 04:50 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học thứ năm 6.3.2025

XXVI

Phẩm Bà La Môn

(Brāhmaṇavagga)

XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 26 (dhp 408)

A painting of a person pointing at a group of people

AI-generated content may be incorrect.

Chánh văn:

26. Akakkasaṃ viññāpaniṃ

giraṃ saccaṃ udīraye

yāya n’ābhisaje kañci

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

(dhp 408)

Thích văn:

Akakkasaṃ [đối cách, số ít, nữ tính, tính từ akakkasa (a + kakkasa)] không thô lỗ, không cọc cằn, hiền hòa.

Viññāpaniṃ [đối cách, số ít, nữ tính, tính từ viññāpana + ī)] dạy bảo, bảo ban, xây dựng.

Giraṃ [đối cách, số ít, nữ tính, danh từ girā] lời nói.

Saccaṃ [đối cách, số ít, nữ tính, tính từ sacca] thật thà, chân thật.

Udīraye [động từ hiện tại, khả năng cách, attanopada, ngôi III, số ít, “u + ir + aya + e”] nên nói, nên thốt ra.

Yāya [sở dụng cách, số ít, nữ tính, quan hệ đại từ ya] bằng lời mà, bởi lời nào.

N’ ābhisaje [hợp âm na abhisaje].

Na [bất biến từ phủ định] không, chẳng.

Abhisaje [động từ hiện tại, khả năng cách, attanopada, ngôi III, số ít, “abhi + saj + a + e”] na abhisaje: không xúc phạm, không nên làm mích lòng.

Kañci [đối cách, số ít, nam tính, đại từ kaci (ka + ci)] bất cứ ai.

Việt văn:

26. Nên nói lời ôn hòa,

xây dựng và chân thật

không làm mích lòng ai

ta gọi ấy phạm chí.

(pc 408)

Chuyển văn:

26. Akakkasaṃ viññāpaniṃ saccaṃ giraṃ udīraye yāya (girāya) kañci na abhisaje. Taṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ brūmi.

Nên nói lời hòa ái xây dựng và chân thật, không nên dùng lời chi xúc phạm đến bất cứ ai. Người ấy ta gọi là bà la môn.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết khi Ngài trú tại Veḷuvana, gần thành Rājagaha, vì chuyện trưởng lão Pilindavaccha.

Trưởng lão Pilindavaccha là vị A la hán, thế nhưng tôn giả có thói quen xưng hô xấc xược “mày tao” khi nói chuyện với người khác dù là các vị xuất gia hay cư sĩ.

Nhiều vị tỳ kheo khó chịu nên đã trình lên bậc Đạo sư. Đức Phật truyền gọi tôn giả Pilindavaccha đến và hỏi: “có thật chăng, này Pilindavaccha, ngươi thường xưng hô “mày tao” với các vị tỳ kheo ?” _ “Thưa có, bạch Thế Tôn”.

Đức Phật quán xét tiền kiếp của tôn giả Pilindavaccha, Ngài nói với chư tỳ kheo: “Này các tỳ kheo, các ông chớ có phiền hà tỳ kheo Pilindavaccha. Này các tỳ kheo, Pilindavaccha không có sân giận mà xưng gọi xấc xược với các tỳ kheo đâu. Này chư tỳ kheo, trải qua năm trăm kiếp sống không gián đoạn, tỳ kheo này đã sanh trong giai cấp bà la môn, lời nói xấc xược đã tiêm nhiễm vị ấy quá lâu đời. Đối với bậc Lậu Tận thì không có lời nói cọc cằn, hung dữ, mắng nhiếc người khác. Sở dĩ con trai của ta nói lời như vậy là do cố tật thôi”. Nói xong, đức Phật thuyết lên bài kệ này: Akakkasaṃ viññāpaniṃ…v.v…tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṇ’ ti.

Dứt kệ ngôn có nhiều vị đắc thánh quả.

Lý giải:

Khi nghe các tỳ kheo phàn nàn tôn giả Pilindavaccha về ngôn từ xấc xược, đức Phật đã xác định vị ấy là bậc Lậu Tận, không có sân tâm mạt sát người khác, vị ấy nói lời như vậy chỉ cố tật quen từ nhiều kiếp xưa.

Nhưng đức Phật cũng khuyên bảo các tỳ kheo, nên nói lời hòa ái, đừng dùng lời gì làm mích lòng bất cứ ai.

Lời hòa ái (akakkasaṃ) là không cộc cằn, gọi là cam ngôn mỹ từ.

Lời xây dựng (viññāpaniṃ) là chỉ bảo điều lợi ích, tiến hóa.

Lời chân thật (saccaṃ) là nói đúng sự thật, không sai trái.

Vị A la hán, trừ phi do tiền khiên tật, không còn sân tâm nói lời cọc cằn, nói lời xúc phạm đến bất cứ ai.

Đức Phật gọi vị ấy là bà la môn Lậu Tận./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc