Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXVI. Phẩm Bà La Môn (Brahmaṇavagga) _ Kệ số 24 (dhp 406)

Thứ sáu, 28/02/2025, 22:18 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học thứ sáu 28.2.2025

XXVI

Phẩm Bà La Môn

(Brāhmaṇavagga)

XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 24 (dhp 406)

A group of people sitting on the floor

AI-generated content may be incorrect.

Chánh văn:

24. Aviruddhaṃ viruddhesu

attadaṇdesu nibbutaṃ

sādānesu anādānaṇ

tamahaṃ brūmi brahmaṇaṃ.

(dhp 406)

Thích văn:

Aviruddhaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ aviruddha (a + viruddha quá khứ phân từ của động từ virujjhati)] không chống đối, không kháng cự, bình thản, an nhiên, thân thiện.

Viruddhesu [định sở cách, số nhiều, nam tính tính viruddha (quá khứ phân từ của động từ virujjhati, vi + rudh + ta)] đối với những kẻ chống đối, giữa những người thù nghịch.

Attadaṇḍesu [định sở cách, số nhiều, nam tính, danh từ hợp thể attadaṇḍa (atta + daṇḍa)] giữa những kẻ dùng đao trượng, giữa những con người hung hãn.

Nibbutaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ nibbuta (quá khứ phân từ của động từ nibbāti)] nguội lạnh, mát mẻ, ôn hòa, hiền lương.

Sādānesu [định sở cách, số nhiều, nam tính, danh từ hợp thể sādāna (sa + ādāna)] giữa những người tham trước, giữa những người chấp thủ.

Anādāṇaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ anādāna (na + ādāna)] vô trước, không chấp thủ.

Việt văn:

24. Thân thiện giữa thù nghịch

ôn hòa giữa hung hăng

không chấp giữa cố chấp

ta gọi ấy phạm chí.

(pc 406)

Chuyển văn:

24. Viruddhesu aviruddhaṃ attadaṇḍesu nibbutaṃ sādānesu anādānaṃ taṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ brūmi.

Thân thiện giữa những người đối nghịch, ôn hòa giữa đám người hung hăng, không chấp trước giữa các người cố chấp, người ấy ta gọi là ba la môn.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết khi Ngài trú tại chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi, vì chuyện các vị Sa di lậu tận.

Có một nữ bà la môn tin phước, nên đã sắm sửa lễ trai tăng đến bốn vị tỳ kheo, rồi bảo ông chồng đi đến tịnh xá xin chỉ định bốn bà la môn lớn tuổi thỉnh về nhà.

Ông chồng đi đến tịnh xá và nói với vị sư có trách nhiệm: “xin ngài hãy chỉ định cho tôi bốn vị bà la môn”.

Vị quản sự đã chỉ định bốn vị sa di A la hán là sa di Saṅkicca, sa di Paṇḍita, sa di Sopāka, sa di Revata, cho ông bà la môn thỉnh về nhà trai tăng.

Nói về nữ bà la môn ở nhà sắp đặt những ch ngồi trang trọng rồi đứng chờ, khi bà nhìn thấy ông chồng mời về bốn vị sa di bảy tuổi, bà nổi nóng tru tréo: “Đã bảo ông đến tịnh xá thỉnh về bốn vị trưởng lão, sao ông lại dắt về bốn đứa trẻ tuổi đáng cháu nội của mình vậy hả?”. Bà ta không mời bốn vị sa di ngồi trên những chỗ ngồi trang trọng, mà trải bốn chỗ ngồi thấp rồi bảo bốn vị sa di hãy ngồi chỗ ấy. Xong, bà hối thúc chồng: “Hãy đi, này ông, khi tìm thấy những vị trưởng thượng hãy thỉnh về đây”.

Ông bà la môn đến tinh xá, nhìn thấy trưởng lão Sāriputta liền thỉnh về nhà. Trưởng lão đến nhà ông bà la môn thấy có bốn vị sa di đang ngồi đó, Ngài hỏi ông bà la môn: “Thức ăn chưa được bốn vị bà la môn này thọ nhận à?”. Ông ta đáp: “Chưa được nhận!”. Trưởng lão nghe vậy, đoán biết vật thực chuẩn bị để cho bốn vị đến trước, nên trưởng lão lấy lại bình bát từ tay ông bà la môn và ra về.

Nữ bà la môn lại giục ông chồng đến chùa thỉnh vị trưởng lão khác. Ông bà la môn đến gặp tôn giả Mahāmoggallāna và thỉnh về nhà. Tôn giả cũng lấy lại bát và đi về sau khi thấy bốn vị sa di A la hán ngồi đấy.

Bấy giờ nữ bà la môn nói với ông chồng rằng: “Các sa môn trưởng lão không muốn ăn vậy ông hãy đến ngôi đền bà la môn, mời một vị bà la môn trưởng thượng về đây”.

Bốn vị sa di A la hán từ sáng sớm đến giờ đó, chưa nhận được miếng thức ăn nào, nên thân của các vị bị đói cồn cào. Vì uy lực của các vị lậu tận quá lớn khiến bảo tọa của Thiên chủ Đế thích nóng rang. Thiên chủ Đế Thích với thiên nhãn quán xét thấy được tình trạng bốn vị sa di a la hán bị đói, liền hiện xuống tại ngôi đền bà la môn và hóa thân là một vị bà la môn trưởng thượng, ngồi trên chỗ ngồi hàng đầu.

Ông bà la môn đi đến đền, thấy vị bà la môn trưởng thượng ngồi hàng đầu trong nhóm bà la môn, thì mừng thầm: “Lần này thì bà nhà sẽ hoan hỷ với ta rồi”. Ông đã nói với vị bà la môn trưởng thượng: “Hãy lại đây! Chúng ta sẽ về nhà”. Rồi dẫn vị bà la môn ấy về nhà.

Nữ bà la môn khi thấy vị bà la môn trưởng thượng đến nhà, bà rất hoan hỷ bèn mời vị bà la môn trưởng thượng ngồi trên chỗ ngồi trang trọng được sắp đặt. Nhưng vị bà la môn hiện thân Đế Thích khi vào nhà đã đảnh lễ bốn vị sa di bằng ngũ thể đầu địa, rồi đã ngồi xuống đất phía sau chỗ ngồi của bốn vị sa di.

Nữ bà la môn thấy vậy nói với ông chồng: “ôi, ông ơi, lão bà la môn mà ông mời về là một người điên, đã đảnh lễ bốn đứa trẻ nít rồi ngồi bệt dưới đất. Hãy lôi ông ta ra khỏi nhà!”. Nói rồi hai vợ chồng bà la môn nắm hai tay đức Đế Thích hóa thân bà la môn trưởng thượng mà lôi kéo ra ngoài cửa. Họ trở vào lại thấy vị bà la môn trưởng thượng ấy đang ngôi kiết già chỗ cũ. Họ thất kinh la lên: “Ông là ai?”. Đức Đế Thích hiện nguyên hình là Thiên chủ Đế Thích và quở trách vợ chồng họ. Thế rồi hai vợ chồng bà môn đã thấy được uy lực của bốn vị sa di. Họ cúng dường vật thc đến năm người. Thọ thực xong, bốn vị sa di đứng dậy ra về, một vị xuyên thủng nóc nhà, một vị đi xuyên thủng mái nhà trước, một vị đi xuyên thủng mái sau, một vị độn thổ; Thiên chủ Đế Thích thì biến mất. Năm vị đã ra đi theo năm cách như vậy.

Nói về bốn vị sa di khi về đến chùa, chư tỳ kheo hỏi: “Các hiền giả, có chuyện gì vậy?”. Bốn vị sa di mới thuật lại sự việc xảy ra sáng nay tại nhà của vợ chồng bà la môn đã bỏ đói bốn vị, đến khi Thiên chủ Đế Thích hiện ra làm cho họ thấy uy lực mới cúng dường thức ăn. Chư tỳ kheo hỏi: “Khi vợ chồng người bà la môn đối xử như thế, các hiền giả có phiền giận họ không?” Bốn vị đáp: “Chúng tôi không phiền giận chi cả!”.

Các vị tỳ kheo phàm phu cho rằng bốn vị sa di nói khoe pháp thượng nhân, nói không thật lòng. Chư tỳ kheo ấy đem chuyện trình bạch lên đức Phật. Đức Phật phán: “Này chư tỳ kheo là bậc thánh lậu tận thì dù ở giữa những người đối nghịch cũng không có sự thù nghịch”. Nói xong, đức Phật đã thuyết lên bà kệ này: Aviruddhaṃ viruddhesu…v.v…tamahaṃ brūmi brāhmaṇan’ ti.

Dứt kệ ngôn, có nhiều vị tỳ khưu đắc chứng thánh quả.

Lý giải:

Trong kệ ngôn này, đức Phật thuyết có ba đặc tính của vị a la hán, Ngài cũng mô tả ba đặc tính ấy theo ngữ cảnh, bốn vị sa di A la hán bị nữ chủ bà la môn đối xử tệ, khi mà bốn vị được tăng chỉ định đến nhà của nữ chủ ấy theo lời thỉnh mời. Nhưng nữ chủ thấy các vị sa di bảy tuổi đến nhà thì không hài lòng, có thái độ khinh thường, không mời ngồi chỗ trang trọng, không dâng cúng thức ăn, bỏ đói từ sáng đến trưa… bốn vị sa di tâm vẫn an nhiên.

Ba đặc tính của vị bà la môn lậu tận đó là thân thiện giữa thù nghịch, ôn hòa giữa hung hăng, không chấp giữ cố chấp.

Gọi là thân thiện giữa thù nghịch (Aviruddhaṃ viruddhesu). Nghĩa là giữa những người chống đối có ác cảm (āghātavasena janesu) vị a la hán không đối kháng, không ác cảm (āghātābhāvena) đối với họ.

Gọi là ôn hòa giữa hung hăng (attadaṇḍesu nibbutaṃ). Nghĩa là giữa những người hiếu chiến sẵn sàng tấn công người khác với gậy gộc hoặc gươm đao hoặc dùng lời cay độc, giữa những người đó, vị A la hán vẫn mát mẻ ôn hòa bỏ xuống đao trượng.

Gọi là không chấp giữa cố chấp (Sādānesu anādānaṃ). Nghĩa là giữa những con người còn chấp thủ ngũ uẩn là “ta”, là “của ta”, giữa những con người còn chấp ấy, vị a la hán không còn sự chấp thủ ấy.

Đức Phật gọi người có ba đặt tính đó, là vị bà la môn Lậu tận.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc