Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXVI. Phẩm Bà La Môn (Brahmaṇavagga) _ Kệ số 22 (dhp 404)

Thứ hai, 24/02/2025, 03:28 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học thứ năm 20.2.2025

XXVI

Phẩm Bà La Môn

(Brāhmaṇavagga)

XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 22 (dhp 404)

Chánh văn:

22. Asaṃsaṭṭhaṃ gahaṭṭhehi

anāgārehi c’ūbhayaṃ

anokasāriṃ appicchaṃ

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

(dhp 404)

Thích văn:

Asaṃsaṭṭhaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể asaṃsaṭṭha (a + saṃsaṭṭha)] không quan hệ, không lân la, không chung chạ.

Gahaṭṭhehi [sở dụng cách, số nhiều, nam tính, danh từ hợp thể gahaṭṭha (gaha + ṭha do căn ṭhā)] với người trú ở nhà, với người tại gia.

Anāgārehi [sở dụng cách, số nhiều, nam tính, danh từ hợp thể anāgāra (na + āgāra)] với những người xuất gia.

C’ ūbhayaṃ [hợp âm ca ubhayaṃ].

Ubhayaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ ubhaya] cả hai.

Anokasāriṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể anokasrī (anoka + sārī)] không định cư, vô gia cư.

Appicchaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể appiccha (appa + icchā + ṇa)] có ít muốn, thiểu dục.

Việt văn:

22. Không quan hệ cả hai

hàng tại gia, xuất gia

vô gia cư, thiểu dục

ta gọi ấy Phạm chí.

(pc 404)

Chuyển văn:

22. Gahaṭṭhehi anāgārehi ca ubhayaṃ asaṃsaṭṭhaṃ anokasāriṃ appicchaṃ taṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ brūmi.

Người không lân la cả hai hạng cư sĩ và hạng xuất gia, sống vô gia cư, ít ham muốn, người ấy, ta gọi là bà la môn.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết khi Ngài trú tại Jetavanavihāra, kinh thành Sāvatthi, do câu chuyện của trưởng lão Tissa.

Vị trưởng lão ấy, sau khi học đề mục thiền nơi bậc Đạo sư, đã vào rừng tìm trú xứ thích hợp. Vị ấy đã tìm thấy một triền núi có thạch động.

Khi tìm thấy được trú xứ thích hợp, vị trưởng lão quyết định: “Ta trú ngụ ở đây, sẽ có thể hoàn thành phận sự tu hành”.

Trong thạch động có vị thiên nữ cũng định cư ở đó, cảm thấy khó chịu: “Vị tỳ kheo mới đến là người có giới hạnh, sống chung một chỗ với vị này thật khó chịu. Nhưng có lẽ vị này chỉ ở đây một đêm sẽ rời đi!”. Nghĩ vậy, vị thiên nữ dắt đứa con trai đi ra ngoài.

Ngày hôm sau, sáng sớm vị trưởng lão đã đi vào làng khất thực. Bấy giờ có bà cận sự nữ khi nhìn thấy vị ấy thì thương mến như người con trai, bèn thỉnh vào nhà ngi, cúng dường thức ăn và bà đã khẩn thỉnh trưởng lão an cư ba tháng sống nương nơi mình. Vị trưởng lão suy nghĩ: “Ta có thể thoát sanh hữu nhờ nương bà tín nữ ấy”, nên đã nhận lời. Rồi trưởng lão trở về thạch động.

Vị thiên nữ thấy vị trưởng lão trở lại, nghĩ là chắc có ai thỉnh, ngày mai hoặc ngày mốt sẽ đi thôi. Nhưng rồi nữa tháng trôi qua vị trưởng lão cũng chưa đi. Vị thiên nữ lấy làm bực bội nên nghĩ cách làm cho vị ấy phạm luật để có cớ đuổi vị ấy đi.

Thiên nữ ấy bèn nhập vào đứa con trai của bà tín nữ hộ độ trưởng lão Tissa, nó trợn trắng, sùi bọt mép. Bà tín nữ thấy con như vậy hốt hoảng la lên, vị thiên nữ vẫn ẩn thân nói với bà: “Nếu bà xin nước rửa chân của vị trưởng lão giới hạnh mà gội đầu cho đứa bé, nó sẽ bình phục”.

Ngay lúc đó, buổi sáng thường lệ trưởng lão Tissa đến nhà bà tín nữ để thọ thực. Bà thỉnh trưởng lão rửa chân rồi mời ngồi và dâng cúng vật thực. Bà tín nữ xin nước rửa chân của trưởng lão rưới lên đầu đứa trẻ. Vị thiên nữ xuất khỏi đứa bé rồi đi và đứng tại cửa thạch động.

Vị trưởng lão ăn xong, đứng dậy ra về. Khi trưởng lão đến ca thạch động, thiên nữ ấy chặn lại và nói: “Này ông thuốc, ông đừng vào đây”. Vị trưởng lão đứng lại và hỏi: “Ngươi là ai ?” _ “Tôi là vị thiên trú ngụ ở đây”. Trưởng lão nói: “Từ khi thọ cụ túc giới đến nay ta không thấy giới của ta có khuyết điểm gì! Ta không thấy ta làm thầy thuốc chửa bệnh cho ai cả, vậy tại sao ngươi nói như vậy ?”.

Vị thiên nữ ấy bèn nói ra sự việc ban sáng Ngài đã lấy nước rửa chân rưới lên đầu đứa con trai của người đàn tín, bị phi nhân nhập và thiên nữ hài tội Ngài là tỳ khưu tà mạng, phạm giới luật, làm thuốc chửa bệnh. Nghe vậy, trưởng lão Tissa đã suy nghĩ: “Ôi, thật là hoàn hảo giới của ta, ngay cả vị thiên này cũng không tìm thấy được tỳ vết về giới hạnh của ta, nên lấy việc rưới nước rửa chân rưới trên đầu đứa trẻ để làm cớ bắt lỗi”. Nghĩ vậy, trưởng lão phát sanh phỉ lạc với thanh tịnh giới; sau khi loại bỏ trạng thái hỷ lạc đó, trưởng lão triển khai tuệ quán và chứng đắc A la hán tại chỗ đứng.

Trưởng lão Tissa đã an cư tại thạch động hết ba tháng mùa mưa rồi đi về Jetavana bái kiến bậc Đạo sư.

Chư tăng hỏi trưởng lão đã làm xong phận sự bậc xuất gia chưa? Trưởng lão kể lại cho chư tăng nghe chuyện xảy ra tại thạch động. Chư vị bèn hỏi: “Này hiền giả, khi thiên nữ hài tội vô lý như vậy, hiền giả có giận không ?”. Trưởng lão đáp: “Không giận”.

Chư tỳ kheo trình bạch lên đức Phật sự việc ấy. Đức Phật phán: “này chư tỳ kheo, đúng vậy, con trai ta không có sự giận dữ. Vị đó là người thiểu dục tri túc, không quan hệ với người cư sĩ, cả người xuất gia”. Nói xong, đức Phật thuyết lên bà kệ này: Asaṃsaṭṭḥaṃ gahaṭṭhehi…v.v…tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ’ ti.

Dứt kệ ngôn có nhiều vị đã đắc thánh quả.

Lý giải:

Gọi là “không quan hệ cả hai hạng tại gia và xuất gia” (asaṃsaṭṭḥaṃ gahatthehi anāgārehi ca ubhayaṃ), nghĩa là không quá thân mật đối với các người cư sĩ và các vị tu sĩ với nhau, như là không tìm gặp, không muốn nghe tâm sự, không nói chuyện phiếm, không thọ dụng cùng ăn cùng uống, không đụng chạm thân thể.

Gọi là “vô gia cư” (anokasāriṃ) sống không có chỗ ở nhất định, sống lang bạt.

Gọi là “thiểu dục” (appicchaṃ), nghĩa là ít ham muốn, ít đòi hỏi, cuộc sống ít có nhu cầu, bằng lòng với những gì mình có được, thường gọi chung là thiểu dục tri túc.

Một người như vậy chỉ có là bậc A la hán mới thành tựu được các đức tính ấy. Người ấy, đức Phật gọi là vị bà la môn Lậu tận./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc