Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXVI. Phẩm Bà La Môn (Brahmaṇavagga) _ Kệ số 15 (dhp 397)

Chủ nhật, 26/01/2025, 09:17 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học chủ nhật 19.1.2025

XXVI

Phẩm Bà La Môn

(Brahmaṇavagga)

XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 15 (dhp 397)

Chánh văn:

15. Sabbasaṃyojanaṃ chetvā

yo ve na paritassati

saṅgātigaṃ visaṃyuttaṃ

tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.

(dhp 397)

Thích văn:

Sabbasaṃyojanaṃ [đối cách, số ít, trung tính, danh từ hợp thể sabbasaṃyo (sabba + saṃyojana)] tất cả kiết sử, mọi triền phược.

Chetvā [bất biến quá khứ phân từ của động từ chindati chid + tvā”] sau khi cắt đứt, sau khi đoạn lìa.

Yo [chủ cách, số ít, nam tính, quan hệ đại từ ya] ai, người nào.

Ve [bất biến từ] thật vậy, quả thật vậy, chắc chắn.

Paritassati [động từ hiện tại, tiến hành cách, parassapada, ngôi III, số ít, “pari + tas + a + ti”] hoảng sợ, sợ hãi.

Saṅgātigaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ hợp thể saṃgātiga (saṅga + atiga quá khứ phân từ của động từ atigacchati)] đã vượt khỏi hệ lụy.

Visaṃyuttaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ visaṃyutta (quá khứ phân từ của động từ visaṃyutta)] đã ly ách, không bị ràng buộc.

Việt văn:

15. Ai cắt mọi kiết sử

chắc chắn không sợ hãi

bỏ hệ lụy, ly ách

ta gọi ấy phạm chí.

(pc 397)

Chuyển văn:

15. Yo sabbasaṃyojanaṃ chetvā ve na paritassati saṅgātigaṃ visaṃyuttaṃ taṃ ahaṃ brāhmaṇaṃ brūmi.

Người nào đã cắt dứt mọi kiết sử, người ấy chắc chắn không có sợ hãi, người đã vượt khỏi hệ lụy, không bị buộc ràng, ta gọi người ấy là phạm chí.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết khi ngài trú ở Veḷuvana, gần thành Rājagaha, để xác chứng quả vị a la hán của tôn giả Uggasena.

Tôn giả Uggasena lúc chưa xuất gia là con trai của nhà trưởng giả, vì say mê tài nghệ của cô gái con ông chủ đoàn xiếc nhào lộn trên dây, nên đã bỏ nhà đi theo đoàn xiếc để cưới cô gái ấy. Chàng học nghệ thuật xiếc nhào lộn trên cây sào cao sáu mươi khủy tay. Khi thành thạo, chàng cùng đoàn xiếc lưu diễn khắp nơi.

Có lần, đoàn xiếc trở lại thành Rājagaha lưu diễn bảy ngày. Vào ngày chàng biểu diễn, sáng hôm đó, đức Phật và chúng tỳ kheo vào thành khất thực. Lúc trở về đi ngang qua khu biểu diễn xiếc, bậc Đạo sư quán xét thấy duyên lành của Uggasena, Ngài dẫn chư tăng đi vào tận nơi, lúc ấy Uggasena đang đứng trên đầu cây sào sáu mươi khủy tay để biểu diễn thấy đức Phật đến, Uggasena phấn khởi vì nghĩ rằng đức Thế Tôn muốn xem ta biểu diễn, anh ta đã trổ tài nhào lộn trên không với điểm tựa nhỏ mà vẫn đứng vững.

Đức Phật tiến đến gần cây sào biểu diễn, Ngài thuyết lên bài kệ “Muñca pure muñca pacchato’ ti” (dhp 348). Dứt bài kệ, Uggasena đang đng yên trên đầu cây sào đã chứng đắc quả vị A la hán với tứ tuệ phân tích. Uggasena từ đầu cây sào nhảy xuống đất quỳ mọp dưới chân bậc Đạo sư và xin xuất gia. Bậc Đạo sư đưa tay vy gọi: “Ehi bhikkhu !” (Hãy đến, này tỳ kheo) tức thì Uggasena thay đổi tướng mạo, có đầy đủ tam y quả bát, râu tóc nhn nhụi, thành một vị tỳ kheo như trưởng lão cao hạ vậy.

Vào buổi chiều chư tăng ngi hội họp tại giảng đường, chư vị đã hỏi tôn giả Uggasena: “Này hiền giả Uggasena, khi hiền giả từ đầu cây sào sáu mươi khủy tay nhảy xuống đất đảnh lễ bậc Đạo sư, hiền giả có sợ hãi không ?”. Vị ấy đáp: “Tôi không có sợ hãi, thưa chư hiền”.

Chư tỳ kheo cho rằng tôn giả Uggasena khoe pháp thượng nhân (vì chỉ có A la hán mới không có sự kinh sợ), chư vị mới đem lời nói ấy trình bạch lên đức Phật.

Đức Thế Tôn phán: “Này chư tỳ kheo, người mà các kiết sử đã được cắt đứt như con trai ta, thì không còn sự sợ hãi nữa”.

Nói xong đức Phật thuyết lên bài kệ này: Sabbasaṃyojanaṃ chetvā…v.v…tamahaṃ brūmi brāmaṇan’ ti.

Lý giải:

Ý nghĩa trong bài kệ này, câu nói “ai cắt mọi kiết sử, chắc chắn không sợ hãi” (sabbasaṃyojanaṃ chetvā yo vena paritassati) nghĩa là cắt đứt mười dây trói buộc như thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái, phẫn nộ, sắc ái, vô sắc ái, kiêu mạn, phóng dật và vô minh; Người nào đã đoạn lìa kiết sử, người ấy không còn sợ hãi nữa.

Câu nói “Bỏ hệ lụy” (saṅgātigaṃ), nghĩa là đã vượt qua năm hệ lụy: tham (rāga), sân (dosa), si (moha), mạn (māna) và tà kiến (diṭṭhi).

Câu nói “ly ách” (visaṃyuttaṃ) nghĩa là không còn mắc bốn ách, là dục ách (kāmayoga), hu ách (bhavayoga), kiến ách (diṭṭhiyoga), vô minh ách (avijjāyoga). Ly ách, nói cho đủ từ là yogavisaṃyutta hay yogavisaṃyogo.

Câu nói “Ta gọi ấy phạm chí” (tamhaṃ brūmi brāhmaṇaṃ), đức Phật gọi người đã cắt đoạn kiết sử, vượt khỏi hệ lụy, ly ách phược, là vị phạm chí lậu tận (khīṇāsavabrāhmaṇa)./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc