- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: PĀLI PHÁP CÚ
Bài học thứ năm 4.7.2024
XXII
Phẩm Khổ Cảnh
(Nirayavagga)
XXII. Phẩm Khổ Cảnh_Kệ số 2 (dhp 307)
Chánh văn:
2. Kāsāvakaṇṭhā bahavo
pāpadhammā asaññatā
pāpā pāpehi kammehi
nirayaṃ te upapajjare.
(dhp 307)
Chuyển văn:
2. Kāsāvakaṇṭhā pāpadhammā asaññatā bahavo te pāpā pāpehi kammehi nirayaṃ upapajjare.
Thích văn:
Kāsāvakaṇṭhā [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ hợp thể kāsavakaṇṭha (kāsāva + kaṇṭha)] những người mà cổ quấn cà sa, các tu sĩ mặc y vàng.
Bahavo [chủ cách, số nhiều, nam tính, tính từ bahu] nhiều, đa số.
Pāpadhammā [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ hợp thể pāpadhamma (pāpa + dhamma)] những kẻ có ác pháp, có pháp xấu xa.
Asaññatā [chủ cách, số nhiều, nam tính, tính từ hợp thể asaññata (a + saññata hay saṃyata quá khứ phân từ của động từ saññameti hay saṃyameti)] không kềm chế, không chế ngự.
Pāpā [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ tính từ pāpa (pāpa + ṇa)] những kẻ ác xấu, những kẻ tội lỗi.
Pāpehi [sở dụng cách, số nhiều, trung tính, danh từ pāpa] do các điều ác, bởi những điều xấu.
Kammehi [sở dụng cách, số nhiều, trung tính, danh từ kamma] do các nghiệp, bởi các hành vi.
Nirayaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ niraya (niraa + aya)] khổ cảnh, cõi không có sự an vui, địa ngục.
Te [chủ cách, số nhiều, nam tính, chỉ thị đại từ ta] những kẻ ấy, những người ấy, họ, chúng nó.
Upapajjare [động từ hiện tại khả năng cách hình thức Attanopada, ngôi III, số nhiều, “
Việt văn:
2. Nhiều kẻ khoác cà sa
ác hạnh, không chế ngự
người ác do ác nghiệp
phải sanh vào khổ cảnh.
(pc 307)
2. Nhiều người cổ quấn cà sa mà theo ác pháp, không chế ngự, những người ác xấu ấy phải chịu sanh khổ cảnh bởi các nghiệp xấu.
Duyên sự:
Bài kệ này, đức Phật thuyết ở Rājagaha, khi Ngài ngự tại chùa Veḷuvana, do chuyện ngạ quỉ hình dáng tỳ kheo.
Tôn giả Mahāmoggallāna cùng với tôn giả Lakkhaṇa đang đi từ núi Gijjhakūta xuống thành Rājagaha khất thực. Đang đi, Ngài Moggallāna trong thấy một ngạ quỉ có hình dáng tỳ kheo đi trên hư không, y cà sa cháy đỏ, bình bát cháy đỏ, thân thể bị thiêu đốt, thấy vậy Ngài Moggallāna mĩm cười. Tôn giả Lakkhaṇa bèn hỏi nguyên nhân gì Ngài mỉm cười?
Tôn giả Moggallāna nói: “Nay không đúng thời, này hiền giả, Ngài hãy hỏi câu hỏi này trước mặt đức Thế Tôn”.
Thế rồi hai vị tôn giả xuống thành Rājagaha khất thực ăn xong, đã đi đến Veluvana đảnh lễ bậc Đạo sư.
Trước mặc bậc Đạo sư, Tôn giả Lakkhaṇa đã hỏi Tôn giả Moggallāna: “Này hiền giả Moggallāna lúc sáng khi từ núi Gijjhakūta xuống, hiền giả mỉm cười do duyên cớ gì?”.
Được hỏi, Tôn giả Moggallāna đáp: “Này hiền giả Lakkhana, ở đây, khi tôi đang từ núi Gijjhakūta xuống đã nhìn thấy một ngạ quỉ hình dáng vị tỳ kheo đang đi trên không, y tăng già lê của nó bị cháy, cháy đỏ rực, cháy lửa ngọn, bình bát của nó cũng bị cháy, dây buộc lưng cũng bị cháy…”
Đức Thế Tôn nghe nói vậy, Ngài phán bảo: “Này chư tỳ kheo, Như Lai đã từng thấy loài ngạ quỉ ấy rồi, nhưng không nói ra vì những người không tin lời Như Lai sẽ bất hạnh, nay có vị Thinh Văn với thiên nhãn thấy được ngạ quỉ ấy, có người làm chứng cho ta. Này chư tỳ kheo, đó là những vị xuất gia trong giáo pháp của đấng Thập lực Kassapa, họ không thực hành đúng theo hạnh bậc xuất gia, họ là những ác tỳ kheo. Do sở hành ác xấu phải chịu quả dị thục sanh làm ngạ quỉ như thế”. Nói xong, đức Phật đã thuyết ra bài kệ: Kāsāvakaṇṭhā bahavo…v.v…nirayaṃ te upapajjare’ ti.
Dứt kệ ngôn, đã có nhiều vị tỳ kheo đắc thánh quả.
Lý giải:
“Kāsāvakaṇṭhā” những kẻ cổ quấn cà sa, tức là những vị tỳ kheo mặc vận y cà sa.
“Pāpadhammā” những kẻ có ác pháp nghĩa là ác pháp, pháp thấp hèn có nơi người nào thì người ấy là người có ác pháp. Đối với vị xuất gia, ác pháp là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định; có sở hành phi phạm hạnh, phi sa môn, nội tâm uế nhiễm.
“Asaññatā” không chế ngự, là không có kềm chế thân hành, khẩu hành và ý hành; để thân hành động phóng túng, miệng nói phóng túng, ý suy nghĩ phóng túng.
Người ác do ác nghiệp phải sanh vào khổ cảnh (pāpā pāpehi kammehi nirayaṃ te upapajjare) nghĩa là những kẻ ác quấy như thế sẽ sanh vào địa ngục, do ác nghiệp bất thiện tự mình đã tạo, chúng sau khi bị nung nấu ở địa ngục, thoát khỏi cõi ấy, với quả dư sót sanh vào loài ngạ quỉ khổ như vậy./.
Tỳ khoe Tuệ Siêu biên soạn.