Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXII. Phẩm Khổ Cảnh (Nirayavagga) _ Kệ số 1 (dhp 306)

Thứ hai, 01/07/2024, 08:35 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học chủ nhật 30.6.2024

XXII

Phẩm Khổ Cảnh

(Nirayavagga)

Gồm 14 bài kệ với 9 duyên sự

XXII. Phẩm Khổ Cảnh_Kệ số 1 (dhp 306)

Chánh văn:

1. Abhūtavādī nirayaṃ upeti

yo c’ āpi katvā na karomī’ ti c’ āha

ubho pi te pecca samā bhavanti

nihīnakammā manujā parattha.

(dhp 306)

Chuyển văn:

1. Abhūtavādī nirayaṃ upeti api ca yo katvā na karomī’ ti ca āha te ubho nihīnakammā manujā api pecca parattha samā bhavanti.

Thích văn:

Abhūtavādī [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể abhūtavādī (“a + bhūta” + vādī)] người nói không thật.

Nirayaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ niraya] khổ cảnh, cõi không có an vui, địa ngục.

Upeti [động từ hiện tại_tiến hành cách ngôi III, số ít, “upa + i + ti”] đi đến, đi vào.

Yo [chủ cách, số ít, nam tính, quan hệ đại từ ya] ai, người nào.

C’ āpi [hợp âm ca api]

Ca [liên từ] và

Api [liên từ] cũng, cũng thế.

Katvā [bất biến quá khứ phân từ của động từ karoti, “kar + tvā”] sau khi làm, sau khi đã làm.

Na [phủ định từ] không, chẳng.

Karomī’ ti [hợp âm karomi iti].

Karomi [động từ hiện tại tiến hành cách, ngôi I, số ít, “kar + o + mi”] tôi làm.

Iti [bất biến từ] rằng là, thay dấu ngoặc kép.

C’ āha [hợp âm ca āha]

Āha [động từ quá khứ bất định, ngôi III, số ít, “brū (căn khuyết thể) + a”] đã nói.

Ubho [chủ cách, số nhiều, nam tính, phiếm chỉ đại từ ubha] cả hai.

Pi như api.

Pecca [bất biến quá khứ phân từ] sau khi chết.

Samā [chủ cách, số nhiều, nam tính, tính từ sama] bằng nhau, giống nhau.

Bhavanti [động từ hiện tại tiến hành cách, ngôi III, số nhiều, “bhū + a + nti”] là, thành ra, trở thành.

Nihīnakammā [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ hợp thể nihīnakamma (nihīna + kamma)] những kẻ có hành vi thấp hèn, những kẻ có hạnh nghiệp hạ liệt.

Manujā [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ manuja] con người, những con người.

Parattha [trạng từ] ở nơi khác, đời sau.

Việt văn:

1. Nói láo đi địa ngục,

và làm nói không làm

cả hai, nghiệp hạ liệt

chết, đời sau giống nhau.

(pc 306)

1. Kẻ nói không thật sẽ đi địa ngục, và người nào làm rồi mà nói “tôi không làm” cũng thế. Cả hai đều là những con người tạo nghiệp hạ liệt, sau khi chết sanh đời sau họ chịu quả giống nhau.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết ở Sāvatthi, khi Ngài trú tại Jetavanavihāra, vì chuyện ngoại đạo tạo ra cái chết của nàng Sundarī để hạ uy tín của đức Phật.

Khi đức Phật xuất hiện ở đời thuyết pháp tiếp độ chúng sanh, dân chúng an trú trong pháp, có niềm tin nơi tam bảo. Các cư sĩ đã cúng dường đức Phật và chúng tỳ kheo để tạo phước, họ quên lãng các ngoại đạo sư. Lợi lộc phát sanh đến các tu sĩ Phật giáo sung mãn.

Các ngoại giáo không còn huy hoàng nữa, họ mất lợi lộc rất nhiều. Sự giảm sút lợi lộc khiến các ngoại đạo đứng ngồi không yên, họ liền hội họp để bày mưu tính kế làm mất thanh danh của đức đức Phật.

Bọn ngoại đạo thuyết phục nữ đệ tử của họ là nàng Sundarī đi đến chùa Jetavana, như là một tín nữ sùng tín đức Phật, đến chùa và trở về lúc phi thời, khi ai hỏi thì nói là ban đêm hầu hạ đức Phật.

Ít lâu sau, bọn ngoại đạo thuê những người côn đồ âm thầm giết chết nàng Sundarī và bí mật vùi xác trong đống rác hoa tàn gần hương thất đức Phật. Rồi bọn ngoại đạo tri hô lên: Sundarī, nữ đệ tử của họ bị mất tích.

Họ kiện lên đức vua xin điều tra. Đức vua hỏi họ có nghi ngờ ở đâu không? Họ nói ở chùa Jetavana, vì những ngày trước đó mọi người thấy nàng Sundarī lui tới Jetavana.

Đức vua ra lệnh cho lính cùng đi với đám ngoại đạo vào chùa và tìm thấy thi thể nàng Sundarī trong đống rác hoa tàn. Bọn ngoại đạo dựng chuyện vu khống đức Phật khắp dân chúng thành Sāvatthi.

Các bậc thánh thinh văn thì vững trú niềm tin, còn những người khác thì phỉ báng, chê trách đức Phật, thậm chí họ còn mắng nhiếc các tỳ kheo đệ tử Phật khi các vị ấy đi khất thực trong thành.

Chư tỳ kheo trình bạch sự việc lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn dạy chư tỳ kheo: Nếu thế thì các ngươi khiển trách lại những người ấy như này “Abhūtavādī nirayaṃ upeti yo cāpi katvā na karomī’ ti cāha ubho pi te pecca samā bhavanti nihīnakammā manujā parattha”. Đó là bài kệ pháp cú 306.

Nói về đức vua Pasenadi, Nhà vua đã mật sai người đi tìm manh mối vụ án Sundarī. Những tên côn đồ sau khi nhận được tiền thuê giết nàng Sundarī từ bọn ngoại đạo, chúng đã cãi vả trong việc chia chát, đứa nào cũng tranh công. Lính của nhà vua đã bắt những tên côn đồ ấy dẫn về nhà vua để điều tra.

Chúng khi đã được các ngoại đạo sư thuê giết nàng Sundarī và vùi xác trong đống rác ấy. Đức vua liền ra lệnh bắt những ngoại đạo sư vào cung thẩm vấn. Họ đã thú nhận. Vua truyền lệnh cho họ đi khắp thành Sāvatthi và tuyên bố với dân chúng rằng: “Vì muốn làm mất thanh danh của Sa môn Gotama, nên chúng tôi đã giết chết nàng Sundarī giấu xác trong chùa Jetavana. Sa môn Gotama vô tội, chúng tôi mới có tội”. Rồi bọn côn đồ và các ngoại đạo sư bị trừng phạt đích đáng. Từ đó trở đi, đức Phật và chúng tỳ kheo càng được lợi đắc cung kính.

Lý giải:

Bài kệ này, đức Phạt dạy các tỳ kheo nói lên để phản ứng sự chê trách của quần chúng.

“Kẻ nói láo” (abhūtavādī) là nói điều không có thật, đặt điều để vu khống, là “chuyện không nói có”.

“Làm rồi nói không làm” (yo cāpi katvā na karomī’ ti cāha) là có làm lại nói tôi không làm, chối bỏ sự thật, là “chuyện có nói không”.

Người “chuyện không nói có” và người “chuyện có nói không”, cả hai đều giống nhau là những kẻ nói dối, là những con người tạo nghiệp hạ liệt.

Những con người ấy đã tạo nghiệp ha liệt sau khi chết sanh đời sau, phải chịu lãnh quả hạ liệt đồng như nhau (te nihīnakammā paraloke samā bhavantī’ ti.)./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc