Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XXI. Phẩm Tạp Lục (Pakiṇṇakavagga) _ Kệ số 15 (dhp 304)

Chủ nhật, 23/06/2024, 19:11 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học chủ nhật 23.6.2024

XXI

Phẩm Tạp Lục

(Pakiṇṇakavagga)

XXI. Phẩm Tạp Lục_Kệ số 15 (dhp 304)

Chánh văn:

15. Dūre santo pakāsenti

himavanto’ va pabbato

asant’ ettha na dissanti

rattiṃ khittā yathā sarā.

(dhp 304)

Chuyển văn:

15. Santo himavanto pabbato iva dūre pakāsenti ettha asanto rattiṃ khittā sarā yathā na dissanti.

Thích văn:

Dūre [định sở cách, số ít, trung tính, danh từ dūra. Ở đây dùng như một trạng từ] ở xa, từ đằng xa.

Santo [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ biệt ngữ santa] bậc an tịnh, bậc đức hạnh, người hiền thiện, người tốt.

Pakāsenti [động từ hiện tại tiến hành cách, ngôi III, số nhiều, “pa + kās + e + nti”] phơi bày, hiển lộ.

Himavanto’ va [hợp âm himavanto iva].

Himavanto [chủ cách, số ít, nam tính, danh tính từ himavantu (hima + vantu)] có tuyết, phủ tuyết; Hy mã lạp sơn.

Iva [bất biến từ tỷ giảo] như, ví như.

Pabbato [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ pabbata] núi, ngọn núi.

Asant’ ettha [hợp âm asanto ettha].

Asanto [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ asanta (a + santa)] những người không đức hạnh, những người xấu.

Ettha [trạng từ] ở đây, nơi đây.

Dissanti [động từ hiện tại thụ động thể, ngôi III, số nhiều, “dis + ya + nti”] được nhìn thấy, được trông thấy.

Rattiṃ [trạng từ] ban đêm, đêm tối.

Khittā [chủ cách, số nhiều, nam tính, tính từ khitta (quá khứ phân từ của động từ khipati)] được bắn đi, được bắn ra.

Yathā [trạng từ] như là, như thế nào.

Sarā [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ sara] những mũi tên.

Việt văn:

15. Người lành dù ở xa

tỏ rõ như núi tuyết

người ác dù ở đây

như tên bắn đêm tối.

(pc 304)

15. Người lành hiện rõ từ đằng xa ví như ngọn núi tuyết, người ác dù ở gần cũng không được nhìn thấy, như thể là tên bắn đi trong đêm tối.

Duyên sự:

Bài kệ này, đức Phật thuyết ở Sāvatthi khi Ngài trú tại Jetavanavihāra, vì chuyện tiểu thư Cūḷasubhaddā, con gái của trưởng giả Anāthapiṇḍika.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika có bốn người con, một trai và ba gái, họ đều là bậc thánh cư sĩ đệ tử Phật.

Trưởng nữ Mahāsubhaddā đã lấy chồng, việc phục vụ trai tăng hàng ngày ông trưởng giả giao cho thứ nữ là Cūḷasubhaddā.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika hồi thời trẻ có người bạn thân Ugga học cùng thầy, khi trưởng thành, trưởng giả Ugga sống tại thành phố Ugganagara, họ vẫn giữ mối giao hảo bằng hữu.

Một lúc nọ, trưởng giả Ugga đi buôn bán với năm trăm cổ xe bò đến kinh thành Sāvatthi, ghé thăm người bạn thân.

Ông Anāthapiṇḍika bảo thứ nữ Cūḷasubhaddā sắm soạn thức ăn, thức uống để thết đãi khách quí.

Trưởng giả Ugga rất hài lòng về công dung ngôn hạnh của tiểu thư Cūlasubhaddā, nên đã nói chuyện với trưởng Anāthapiṇḍika, nhắc lại lời hứa hẹn năm xưa giữa hai người lúc còn đi học. Họ kết thân bằng hữu và giao ước rằng sau này cả hai có con trai và con gái sẽ làm thông gia.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika chưa nhận lời cầu hôn của bạn, vì giờ đây gia đình ông là đệ tử Phật có chánh kiến, còn ông trưởng giả Ugga và gia đình tà kiến ngoại giáo. Trưởng giả Anāthapiṇḍika hôm sau đi đến chùa bạch hỏi đức Phật việc ấy. Đức Thế Tôn quán xét thấy duyên lành của ông Ugga nên thuận cho.

Ông Anāthapiṇḍika về nhà thông báo cho bạn trưởng giả Ugga, hai bên về định ngày cử hành hôn lễ cho hai trẻ.

Ông Anāthapiṇḍika ban lời giáo huấn cho con gái về nhà chồng và cho của hồi môn hậu hỉ. Đồng thời ông cho mời tám vị Bô lão của gia tộc đến để gửi gắm con gái của mình, nhờ các vị chỉ bảo và bênh vực cho.

Vào ngày lễ vu quy của con gái, Trưởng giả Anāthapiṇḍika cung thỉnh đức Phật và chư Tăng về nhà cúng dường trọng thể.

Tiểu thư Cūḷasubhaddā được xe hoa rước về thành Ugga, bên nhà chồng tiếp đón nồng hậu do phước của nàng.

Tuy vậy, tiểu thư Cūḷasubhaddā vẫn có điều làm trái ý cha chồng. Trưởng giả sùng bái đạo lõa thể, có hôm ông mời các đạo sĩ lõa thể về nhà cúng dường, ông bảo nàng dâu đảnh lễ các đạo sĩ ấy, nhưng nàng không chịu và nói rằng: Những đạo sĩ này không biết mắc cỡ. Thái độ ấy khiến cha chồng nàng nổi giận, đuổi nàng ra khỏi nhà. Nhưng tám vị bô lão đến can thiệp, bênh vực nàng.

Mẹ chồng nàng Cūḷasubhaddā là người ôn hòa, bà hỏi con dâu về phẩm thạnh của các Sa môn mà con dâu tín ngưỡng.

Nàng Cūḷabhaddā liền nói lên những phẩm hạnh cao quí của đức Phật và chư Thinh Văn cho mẹ chồng nghe tường tận.

Nghe vậy, mẹ chồng nàng rất muốn được diện kiến đức Phật và chúng tỳ kheo, nên bảo nàng tìm cách thỉnh quí Ngài về nhà cúng dường. Nàng Cūḷasubhaddā đang ở tại nhà chồng, nơi kinh thành Ugga, cách xa chùa Jetavna ở kinh thành một trăm hai mươi do tuần, nàng hướng về Jetavana đảnh lễ đức Thế Tôn và gởi luồng tư tưởng thỉnh cầu đức Thế Tôn và Tăng chúng sáng mai đến nhà cha mẹ chồng nàng để thọ thực, do tâm chí thành này mong bậc Đạo sư hiu được. Nàng tung lên tám hoa nhài trên không trung.

Lúc ấy, Thế Tôn đang thuyết pháp cho hội chúng ở Jetavana Sāvatthi, tám hoa lài rơi từ không trung xuống trước mặc Ngài; Ngài đọc được tư tưởng của nàng Cūḷasubhaddā và nhận lời.

Ông trưởng giả Anāthapiṇḍika nghe pháp xong, đảnh lễ đức Thế Tôn và thỉnh Ngài về nhà ông thọ thực ngày mai.

Đức Phật nói: “Này gia chủ, Như Lai đã nhận lời thỉnh thọ thực ngày mai của con gái ông, Cūḷasubhadda, rồi”.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika rất ngạc nhiên, vì con gái ông ở bên nhà chồng cách đây 120 do tuần thì làm sao đến thỉnh Phật được? Ông bạch hỏi đức Phật, Ngài bảo: “Này gia chủ, người lành dù ở xa cũng hiện rõ như núi tuyết vậy”. Rồi Thế Tôn đã nói lên bài kệ: Dūre santo pakāsenti…v.v…rattiṃ khittā yathā sarā’ ti.

Khi dứt kệ ngôn có nhiều người chứng thánh quả.

Sáng hôm sau, đức Phật dẫn 500 vị Thinh văn Lậu tận dùng thần thông đi đến nhà của trưởng giả Ugga, ở kinh thành Ugga.

Trưởng giả Ugga trông thấy đức Phật và Tăng chúng uy nghiêm thật thanh tịnh, thì phát tâm tịnh tín ra nghênh tiếp, thỉnh vào nhà, đảnh lễ và cúng dường trọng thể suốt bảy ngày.

Đức Thế Tôn đã thuyết pháp thích hợp căn cơ của gia đình trưởng giả. Sau khi chấm dứt thời pháp, trưởng giả Ugga cùng gia quyến chứng ngộ giáo pháp.

Đức Phật bảo tôn giả Anuruddha ở lại kinh thành Ugga để tế độ dân chúng nơi đây. Từ đó Phật pháp được thiết lập ở địa phương này.

Lý giải:

Bài kệ này, đức Phật thuyết đề cập đến tiểu thư Cūḷasubhaddā, một vị thánh cư sĩ đạt được chánh tri kiến và niềm tin bất động, dù nàng ấy ở bên nhà chồng rất xa, nhưng nàng hướng tâm đến đức Phật và thỉnh Ngài quang lâm về nhà để tiếp độ cha mẹ chồng nàng, lòng tín thành ấy đã ứng nghiệm.

Trong bài kệ, danh từ Santo (những người lành) là chỉ cho những người có thiện căn, tâm tu tiến. Trường hợp khác thì danh từ Santo là bậc an tịnh, bậc tĩnh lặng phiền não như các vị Lậu tận.

“Tỏ rõ như núi tuyết” (pakāsenti himavanto’ va pabbato), nghĩa là người lành dù ở xa nhưng hiện rõ, được thấy rõ như ngọn núi phủ tuyết trắng dù đứng ở xa vẫn trông thấy rõ ràng.

“Người ác xấu dù ở gần cũng không được thấy” (Asant’ ettha na dissanti), nghĩa là đối với người xấu, dù có ở kế bên cũng không ai muốn nhìn, không ai muốn biết, muốn nhớ đến… với thiện cảm.

Người ác xấu bị lãng quên, không được ấn tượng tốt cũng ví như tên bắn trong đêm tối. Dù ban ngày sáng, mũi tên bắn đi cũng khó nhìn thấy huống hồ là ban đêm./.

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc