- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: PĀLI PHÁP CÚ
Bài học chủ nhật 17.12.2023
XVI
Phẩm Thân Ái
(Piyavagga)
XVI. Phẩm Thân Ái_Kệ số 11, 12 (dhp 219, 120)
Chánh văn:
11. Cirappavāsiṃ purisaṃ
dūrato sotthimāgataṃ
ñātimittā suhajjā ca
abhinandanti sāgataṃ.
(dhp 219)
Người lâu ngày ly hương
từ xa bình yên về
quyến thuộc cùng thân hữu
hân hoan đón chào mừng.
(pc 219)
12. Tath’eva katapuññampi
asmā lokā paraṃ gataṃ
puññāni paṭiggaṇhanti
piyaṃ ñāti’ va āgatāṃ.
(dhp 220)
Cũng thế, các phước nghiệp
tiếp đón người làm thiện
bỏ đời này sanh đi.
như quyến thuộc đón chào.
(pc 220)
Duyên sự:
Hai bài kệ này, đức Phật thuyết khi Ngài trú ở Isipatana, thành Bārāṇasī.
Tại thành Bārāṇasī, có một gia đình tín đồ Phật giáo. Gia đình ấy có cậu con trai tên là Nandiya cũng tịnh tín tam Bảo như cha mẹ.
Hằng ngày, chàng Nandiya thỉnh chư Tăng về nhà và cúng dường vật thực.
Khi chàng Nandiya đến tuổi lấy vợ, cha mẹ chàng tìm được một thiếu nữ gia đình khá giả, cưới về cho con trai mình. Chàng Nandiya không ưng vì nàng ấy là người không có đức tin tam Bảo.
Mẹ của chàng Nandiya mới bảo khuyên tiểu thư Revatī: “Trong nhà này, là gia đình tín đồ Phật giáo, hằng ngày thường cúng dường hộ độ chư tỳ kheo. Nếu con muốn làm vợ của con trai ta thì con phải kính trọng tam Bảo”.
Nàng Revatī vâng lời. Chàng Nandiya thấy nàng có niềm tin tam Bảo mới chịu thành thân.
Khi cha mẹ qua đời, chàng Nandiya vẫn giữ nguyên truyền thống gia đình là hộ độ tăng chúng.
Gia chủ Nandiya nghe đức Phật thuyết pháp về quả phước bố thí trú xứ đến tứ phương Tăng, liền xuất tiền kiến tạo ngôi đại tinh xá (mahāvihāra) ở Isipatana. Khi ngôi tinh xá hoàn thành tứ phương Tăng chúng có đức Phật chủ toạ.
Lúc gia chủ cầm bình rưới nước vào tay đức Thế Tôn, thời khắc ấy trên cõi trời Đao lợi hiện ra Thiên cung bảy báu cao và rộng với ngàn Ngọc nữ xinh đẹp.
Một ngày nọ, Tôn giả Mahāmoggallāna du hành trên thiên giới, Tôn giả dừng chân trước thiên cung thất bảo ấy và các thiên nữ trong thiên cung đi ra đảnh lễ tôn giả.
Tôn giả Mahāmoggallāna hỏi:
“Thiên cung thất bảo này là của ai?”
Họ đáp: “Bạch Ngài, ở cõi người có vị trưởng giả tên Nandiya, xây cất ngôi đại tinh xá dâng cúng tứ phương Tăng. Toà thiên cung này hiện ra sẳn và chúng con ở đây để chờ đón”.
Tôn giả từ thiên giới trở về cõi người đi đến đảnh lễ đức Phật và bạch hỏi:
“Bạch Thế Tôn, có phải một người còn sống ở nhân gian tạo phước thiện, thì thiên giới đã hiện sẳn thiên cung chờ người ấy sanh lên?”
“Này Moggallāna, không phải ngươi đã tận mắt thấy thiên cung thất bảo hiện ra trên cõi trời Đạo lợi để chờ đón Nandiya đó hay sao, lại còn hỏi Như Lai”.
Tôn giả Moggallana liền thuật lại cho đức Phật nghe điều mình thấy trên thiên giới. Nhân đó đức Phật dạy: “Những người nam hay nữ ở cõi người đã làm phước, thì nơi thiên giới, tài sản chư thiên đã hiện ra sẵn cho người ấy và khi người ấy mệnh chung ở cõi người, tái sanh vào thiên giới sẽ được hội chúng chư thiên hân hoan đón tiếp như quyến thuộc và thân hữu hoan hỷ đón chào người ly hương trở về vậy”. Rồi đức Phật đã nói lên hai bài kệ: Cirappavāsiṃ purisaṃ…v.v…piyaṃ ñātī’ va āgatan’ ti.
Dứt pháp thoại, có nhiều vị tỳ kheo chứng đắc quả thánh.
Chuyển văn:
11. Cirappavāsiṃ purisaṃ dūrato sotthiṃ āgataṃ ñātimittā suhajjā ca sāgataṃ abhinandanti.
12. Tathā eva katapuññaṃ api asmā lokā paraṃ gataṃ puññāni āgatāṃ piyaṃ ñātī iva paṭiggaṇhanti.
Một người đã lâu ngày ly hương từ xa trở về bình yên, quyến thuộc và thân hữu hân hoan đón chào.
Cùng thế ấy, người làm phước khi từ biệt cõi này, sanh đến cảnh giới khác, các phước nghiệp tiếp nhận người ấy như tiếp người thân yêu trở về.
Thích văn:
Cirappavāsiṃ [đối cách, số ít, nam tính, hợp thể tính từ “cira + pavāsī”] lâu ngày ly hương, xa xứ đã lâu.
Purisaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ purisa] một người (nói chung cả người nam và người nữ).
Dūrato [bất biến từ “dūra + to”_Dùng như xuất xứ cách] từ xa.
Sotthiṃ [đối cách, số ít, nữ tính, danh từ sotthi_dùng như một trạng từ] bình yên, an toàn.
Āgataṃ [đối cách, số ít, nam tính, quá khứ phân từ āgata (ā +
Ñātimittā [chủ cách, số nhiều, nam tính, hợp thể danh từ “ñāti + mitta”] thân quyến và bằng hữu, quyến thuộc và bạn bè.
Sahajjā [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ suhajja] người quen, láng giềng.
Abhinandanti [động từ tiến hành cách “Abhi +
Sāgataṃ [=svāgataṃ. Trạng từ “Su + āgataṃ”] hoan nghinh, chào đón.
Tath’ eva [hợp âm tathā eva]
Tathā [trạng từ] như thế ấy, cũng như thế.
Katapuññaṃ [đối cách, số ít, nam tính, hợp thể danh từ “kata + puñña + a”] người tạo phước, người làm thiện.
Asmā [xuất xứ cách, số ít, nam tính, chỉ thị đại từ ima] từ cái này.
Lokā [xuất xứ cách, số ít, nam tính, danh từ loka] từ thế giới. Asmā lokā: từ thế giới này, từ đời này.
Paraṃ [đối cách, số ít, nam tính, phiến chỉ đại từ para] khác, đời sau.
Gataṃ [đối cách, số ít, nam tính, quá khứ phân từ gata (
Puññāni [chủ cách, số nhiều, trung tính, danh từ puñña] các phước thiện, những việc phước.
Paṭiggaṇhanti [động từ tiến hành cách “paṭi +
Piyaṃ [đối cách, số ít, nam tính, tính từ piya] thân yêu.
Ñātī’ va [hợp âm ñātī iva]
Ñātī [chủ cách, số nhiều, nam tính, danh từ ñāti] thân quyến, các quyến thuộc.
Āgataṃ [đối cách, số ít, nam tính, quá khứ phân từ āgata] trở về.
Lý giải:
Hai bài kệ này, đức Phật nói đến trường hợp một người làm phước với qui mô lớn, làm phước bằng niềm tin mạnh mẽ và hoan hỷ, nhất là làm phước cúng dường đến Tăng chúng, như xây cất chùa dâng tứ phương Tăng hoặc thường xuyên cúng dường vật thực đến chư Tăng…v.v…Như vậy, phước mới đủ mạnh để sanh về cõi trời, thiên cung mới hiện ra sẳn sàng, hội chúng chư thiên mới nghênh đón.
Tuy nhiên, một người sống hiền thiện chuyên tạo nghiệp lành, quả phước trở thành hành trang cho người ấy, sau khi mệnh chung luân hồi đến cõi vui nào, quả dị thục phước thiện cũng nâng đỡ hộ trì người ấy, như thân quyến tiếp đón người thân từ xa mới về vậy.
Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.