Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | XIX. Phẩm Chấp Pháp (Dhammaṭṭhavagga) _ Kệ số 16, 17 (dhp 271, 272)

Thứ năm, 11/04/2024, 17:13 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học thứ năm 11.4.2024

XIX

Phẩm Chấp Pháp

(Dhammaṭṭhavagga)

XIX. Phẩm Chấp Pháp_Kệ số 16, 17 (dhp 271, 272)

Chánh văn:

16. Na sīlabbatamattena

bāhusaccena vā pana

athavā samādhilābhena

vivittasayanena vā.

(dhp 271)

17. Phusāmi nekkhammasukhaṃ

aputhujjanasevitaṃ

bhikkhu vissāsamāpādi

appatto āsavakkhayaṃ.

(dhp 272)

Chuyển văn:

16, 17. Bhikkhu āsavakkhayaṃ appatto vissāsaṃ na āpādi “Aputhujjanasevitaṃ nekkhammasukhaṃ phusāmi” sīlamattena vā pana bāhusaccena athavā samādhilābhena vivittasayamena vā.

Thích văn:

Sīlabbatamattena [sở dụng cách, số ít, trung tính, danh từ hợp thể sīlabbatamatta (sīla + vata + matta)] bởi do giới hạnh.

Vā pana [liên từ] hoặc là.

Bāhusaccena [sở dụng cách, số ít, trung tính, danh từ hợp thể bāhusacca (bahu + suta + ṇya)] bởi do học nhiều, bởi sự đa văn.

Athavā [liền từ] hay là, hoặc là.

Samādhilābhena [sở dụng cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể samādhilābha (samādhi + lābha)] bởi sự đắc định, do đắc thiền định.

Vivittasayanena [sở dụng cách, số ít, trung tính danh từ hợp thể vivittasayana (vivitta + sayana)] chổ nằm ngồi thanh vắng, với trú xứ viển ly.

Phusāmi [động từ hiện tại_tiến hành cách “phus + a + mi”, ngôi I, số ít] ta cảm xúc, ta xúc chạm, ta chứng đạt.

Nekkhammasukhaṃ [đối cách, số ít, trung tính, danh từ hợp thể nekkhammasukha (nekkhamma + sukha)] lạc xuất ly, lạc ly dục, hạnh phúc do ly dục.

Aputhujjanasevitaṃ [đối cách, số ít, trung tính, danh từ hợp thể aputhujjanasevita (aputhujjana + sevita)] vị bất phàm mới hưởng được, bậc thánh mới hưởng được.

Bhikkhu [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ bhikkhu] vị tỳ kheo, vị tỳ khưu.

Vissāsamāpādi [hợp âm vissāsaṃ āpādi]

Vissāsaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ vissāsa] sự thành tín, sự thân tín, sự tự tin.

Āpādi [động từ thì quá khứ_quá khứ cách của động từ āpajjati (ā + pad + ya), ngôi III, số ít] đã dự vào, đã gia nhập. Vissāsaṃ āpādi = đã tự tin.

appatto [chủ cách, số ít, nam tính, tính từ hợp appatta (na + patta)] khi chưa đạt đến, chưa chứng đắc.

Āsavakkhayaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể Āsavakkhaya (āsava + khaya)] sự đoạn tận lậu hoặc, sự đoạn lậu.

Việt văn:

16, 17. Không chỉ bởi giới hạnh

hoặc chỉ bởi đa văn,

hay do chứng thiền định

hoặc trú xứ thanh vắng,

mà nghĩ: “Ta xúc lạc

bậc thánh mới hưởng được”

Tỳ kheo, chớ tự tin

nếu chưa đắc Lậu tận.

(dhp 271, 272)

16, 17. Vị tỳ kheo chưa chứng lậu tận thì chớ tự tin: “Ta đang cảm xúc lạc ly dục mà bậc phi phàm mới hưởng được”, dù với giới hạnh, hoặc sự đa văn, hoặc đắc thiền định, hoặc hạnh ẩn dật.

Duyên sự:

Hai bài kệ này, đức Phật thuyết ở Sāvatthi, khi Ngài trú tại Jetavanavihāra, do chuyện các vị tỳ kheo đắc cụ túc giới vân vân.

Trong các vị tỳ kheo ấy, có một số vị giữ giới tinh nghiêm, có một số vị tu đầu đà, có một số vị đa văn, có một số vị ẩn cư trú xứ thanh vắng, có một số vị đắc thiền định, cũng có những vị là bậc A na hàm. Mặc dù chư vị tỳ kheo này đã thành tựu những tiến bộ tinh thần khá cao, nhưng không kiên trì tinh tấn để đắc quả A la hán, các vị tự tin rằng “Quả vị A la hán đối với chúng ta không khó đắc, lúc nào muốn thì chúng ta sẽ chứng quả vô sanh thôi”.

Các vị A na hàm thì nghĩ rằng: “Ta đang cảm xúc lạc ly dục mà phàm nhân không hưởng được, bây giờ đối với ta, quả A la hán đắc không khó!”.

Một ngày kia, tất cả các vị ấy cùng đi đến vấn an bậc Đạo Sư. Đức Thế Tôn hỏi các vị: “Này các tỳ kheo, các người đã đạt cứu cánh phận sự của bậc xuất gia chưa?”

Khi bậc Đạo sư hỏi, các vị ấy vâng đáp: “Bạch Thế Tôn, chúng con đã thành tựu như vầy, như vầy. Bởi thế, chúng con nghĩ rằng mình có khả năng chứng đắc qua A la hán ngay lúc nào muốn đắc”.

Bậc Đạo sư nghe các vị ấy nói thế, Ngài phán bảo: “Này các tỳ kheo, với vị tỳ kheo chỉ với sự thành tựu thanh tịnh giới…v.v…hoặc chỉ với sự chứng đạt quả lạc bất lai, thì chưa đáng để nói:_Chúng ta chỉ còn khổ sanh hữu chút ít thôi!_ Thế nên khi chưa chứng đắc Lậu tận thì không nên nghĩ rằng_Ta được an lạc”.

Nói xong, đức Phật thuyết lên hai bài kệ: Na sīlabbatamattena…v.v…appamatto āsavakkhayan’ ti.

Dứt pháp thoại, các vị tỳ kheo ấy đã trú vào quả vị A la hán. Pháp thoại cũng có lợi lạc cho những vị có mặt.

Lý giải:

Cụm từ “sīlabbatamattena”, có ý nghĩa bao gồm tứ thanh tịnh giới (catupārisuddhi sīlamattena) và mười ba hạnh đầu đà (terasadhutaṅgamattena), đây gọi là giới hạnh (sīlabbata).

Cụm từ “bāhusaccena”, có nghĩa là học hiểu cả tam tạng (tiṇṇaṃ piṭakānaṃ uggahitamattena).

Cụm từ “samādhilābhena”, có nghĩa là đắc tám thiền (aṭṭhasamāpattiyā lābhena) gồm bốn thiền sắc giới và bốn thiền vô sắc giới.

Cụm từ “vivittasayanena”, nghĩa là sống ở những trú xứ vắng vẻ (pantasenāsanavāsinā).

Cụm từ “nekkhammasukha”, có nghĩa là quả vị A na hàm (anāgāmiphala). Bậc A na hàm đã tuyệt trừ ái dục, nên bậc thánh ấy cảm xúc lạc ly dục (nekkhammasukhaṃ phusati), một trạng thái an lạc mà chỉ có bậc thánh mới hưởng được (ariyasevitameva), hạnh phàm phu không hưởng được (puthujjanehi asevitaṃ).

Trong hai bài kệ này, có ý nghĩa là: Đức Phật khuyên dạy các đệ tử, vị tỳ kheo khi chưa đắc quả A la hán thì không nên tự mãn (vissānaṃ na āpajjeyya) rằng: “ta được an lạc” hay “sanh hữu còn chút ít”. Bởi vì dù sanh hữu còn chút ít, vài kiếp sống cũng là khổ, cũng như phẩn, dù chút ít cũng là hôi thúi (yathā hi appamattopi gūtho duggandho hoti evaṃ appamattakopi bhavo dukkho). Đó là lạc của thánh hữu học, nói chi là lạc của phàm phu.

Dứt phẩm mười chín

Phẩm chấp pháp

Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.

Ý kiến bạn đọc