Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | VIII. Phẩm ngàn (Sahassavagga) _ Kệ số 5 và 6 (dhp 104, 105)

Thứ năm, 19/01/2023, 09:23 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học ngày 19.1.2023


VIII

PHẨM NGÀN

(sahassavagga)

VIII. Phẩm Ngàn _ Kệ số 5 và 6 (dhp 104, 105)

Duyên sự:

Hai bài kệ nầy đức Phật thuyết khi Ngài trú tại Jetavana gần thành Sāvatthi, nhân câu chuyện của bà-la-môn Anatthapucchaka.

Ông bà-la-môn nầy có biệt danh Anatthapucchaka vì ông ta đến đức Phật với câu hỏi ngược đời. Ông ta nghĩ rằng: “Thông thường thiên hạ nói đức Phật thuyết pháp trình bày điều lợi ích cho quần chúng. Ta hãy hỏi vị sa môn nầy xem ông ta có biết pháp vô ích (anattha) chăng?”. Bởi thế ông bà-la-môn nầy mới có biệt danh là “người hỏi pháp vô ích” (Anatthapucchaka). Khi bà la môn nầy hỏi đức Phật, Ngài có biết pháp vô ích không? thì đức Phật đã thuyết cho ông ta nghe những pháp vô ích, đem đến bất lợi cho người hành theo. Bà la môn ấy phát sanh niềm tin và tán thán đức Phật, Ngài quả là thầy của đồ chúng, là giáo chủ của môn phái, Ngài biết cả pháp lợi ích và pháp vô ích.

Đức Phật quán xét khuynh hướng của bà la môn ấy để thuyết pháp tế độ ông ta. Ngài hỏi ông bà-la-môn sống bằng nghề gì?

“Bằng nghề cờ bạc, thưa Ngài Gotama!”

“Ông thắng hay thua?”

“Thưa, cũng có thắng, cũng có thua.”

Nghe vậy, đức Phật nói: “việc thắng trong cờ bạc thật tầm thường, không gọi là sự thắng tốt đẹp; Người nào thắng được bản thân bằng sự chinh phục phiền não, đó mới là sự thắng tốt đẹp, bởi vì không ai có thể đánh bại người chiến thắng như vậy”. Nói xong, đức Phật thuyết hai bài kệ: “Attā have jitaṃ seyyo … niccaṃ saññatacārino. Neva devo na gandhabbo … tathārūpassa jantuno ’ti”.

Dứt bài kệ, bà la môn Anatthapucchaka đã đắc tu đà hườn. Nhiều vị tỳ khưu cũng chứng được thánh quả.

*

Chánh văn:

Attā have jitaṃ seyyo

yā cā’ yaṃ itarā pajā

attadantassa posassa

niccaṃ saññatacārino.

(dhp 104)

N’ eva devo na gandhabbo

na māro saha brahmunā

jitaṃ apajitaṃ kayirā

tathārūpassa jantuno.

(dhp 105)

*

Thích văn:

attā [chủ cách số ít của danh từ nam tính biệt ngữ atta] ta, tự mình, bản thân.

have [bất biến từ] thật vậy, quả thật.

jitaṃ [chủ cách số ít trung tính (đảo nghịch tính) của quá khứ phân từ jita (căn ji)] chiến thắng, chinh phục.

seyyo [bất biến từ] tốt hơn

[chủ cách số ít nữ tính của quan hệ đại từ ya] nào, bất cứ ai.

cā’ yaṃ [hợp từ ca ayaṃ]

ca [liên từ] và

ayaṃ [chủ cách số ít nữ tính của chỉ thị đại từ ima] nầy.

itarā [chủ cách số ít nữ tính của phiếm chỉ đại từ itara] khác, người khác.

pajā [chủ cách số ít của danh từ nữ tính pajā] nhân loại, con người.

attadantassa [chỉ định cách số ít nam tính của hợp thể tính từ attadanta (atta + danta)] đã điều phục bản thân, đã tự điều phục.

posassa [chỉ định cách số ít của danh từ nam tính posa] nam nhân, con người.

niccaṃ [trạng từ] thường xuyên

saññatacārino [chỉ định cách số ít nam tính của hợp thể tính từ saññatacārī (saññata + cārī)] sống chế ngự, sống khắc phục.

N’ eva [hợp âm “na eva”] không có.

devo [chủ cách số ít của danh từ nam tính deva] vị trời, thiên thần.

gandhabbo [chủ cách số ít của danh từ nam tính gandhabba] vị Càn-thát-bà, vị thiên nhạc công.

māro [chủ cách số ít của danh từ nam tính māra] vị thiên ma, ma vương

saha [giới từ] với, cùng với

brahmunā [sở dụng cách số ít của danh từ nam tính biệt ngữ brahma] phạm thiên.

jitaṃ [đối cách số ít trung tính của quá khứ phân từ jita (căn ji)] chiến thắng, chinh phục.

apajitaṃ [đối cách số ít trung tính của quá khứ phân từ apajita (apa + căn ji)] thất bại, chiến bại, thua trận, bại trận.

kayirā [động từ khả năng cách ngôi III số ít (căn kar + yira + ā)] làm, tác tạo. Ở đây dùng như một trợ động từ “jitaṃ kayirā chiến thắng; apajitaṃ kayirā đánh bại”.

tathārūpassa [chỉ định cách số ít nam tính của tính từ hợp thể tathārūpa (tathā + rūpa)] có như vậy, tính như vậy.

jantuno [chỉ định cách số ít của danh từ nam tính jantu] chúng sinh, sinh vật, con người.

*

Việt văn:

Tự thắng bản thân mình

tốt hơn thắng người khác.

Người sống tự điều phục

luôn luôn biết chế ngự

với con người như vậy

không ai đánh bại được

dù thiên thần, thát bà,

ma vương hay phạm thiên.

(pc 104 -105)

*

Chuyển văn:

Attā jitaṃ have seyyo yā ca ayaṃ itarā pajā attadantassa niccaṃ saññatacārino posassa.

Na eva devo na gandhabbo na brahmunā saha māro tathārūpassa jantuno jitaṃ kayirā apajitaṃ.

Tự chiến thắng mình quả là tốt đẹp, hơn thắng người nầy người kia. Đối với người luôn sống tự điều phục và chế ngự, con người như thế, không có vị thiên nào, hay vị càn thát bà nào, hay vị thiên ma với cả vị phạm thiên, mà có thể chinh phục đánh bại được.

Lý giải:

Tiếng jitaṃ trong câu Attā have jitaṃ seyyo, lẽ ra là hình thức nam tính jito; Trong pāli vẫn có trường hợp đảo nghịch tính (liṅgavipallāso), đảo nghịch cách (vibhattivipallāso). Trường hợp jitaṃ là đảo nghịch tính. Câu Attā have jitaṃ seyyo, có nghĩa: Attano kilesajayena attā jito seyyo, tự chiến thắng với sự thắng phục phiền não của chính mình là tốt hơn.

Ở đời có kẻ thắng người khác bằng cờ bạc, bằng kim tiền, bằng chiến tranh hay bằng vũ lực. Sự chiến nầy, theo Phật pháp, là không tốt. Vì sao vậy? vì sự chiến thắng người khác, thắng hôm nay có thể chiến bại ngày mai; hơn nữa dùng kim tiền vũ lực để thắng người khác sẽ chuốc lấy thù oán hoặc tạo ra những nghiệp bất thiện đưa đến quả khổ đau trong tương lai.

Trong khi đó, người điều phục được chính mình, sống chế ngự phiền não, tự chiến thắng mình, luôn được an vui, chứng đắc đạo quả chấm dứt khổ luân hồi.

Đối với người tự thắng như vậy, không ai trên đời có thể đánh bại hay chinh phục được người ấy. Dù là vị thiên hay vị càn thát bà, hay ma vương hay vị thiên có ý muốn:

“Ta sẽ chinh phục người nầy, ta sẽ làm cho người nầy sanh phiền não, thối thất tu tiến đạo quả, cũng không thể làm được.

Vì ý nghĩa nầy nên đức Phật thuyết: tự thắng chính mình là tốt hơn thắng người khác.

Tỳ khưu Tuệ Siêu biên soạn

Ý kiến bạn đọc