Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | VIII. Phẩm Ngàn (Sahassavagga) _ Kệ số 12 (dhp 111)

Chủ nhật, 12/02/2023, 08:03 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học ngày 13.2.2023


VIII

PHẨM NGÀN

(sahassavagga)

VIII. Phẩm Ngàn _ Kệ số 12 (dhp 111)

Duyên sự:

Bài kệ nầy đức Phật thuyết tại Jetavana thành Sāvatthi, nhân vì năm trăm tỳ kheo đệ tử của trưởng lão Khāṇukoṇḍañña.

Tương truyền, trưởng lão Khāṇukoṇḍañña sau khi thọ giáo đề mục thiền từ nơi bậc Đạo Sư, đã đi vào một khu rừng, hành đạo và đắc quả A la hán.

Trưởng lão trở về để đảnh lễ đức Phật; trên đường về, trưởng lão dừng chân qua đêm tại một tảng đá bằng phẳng và nhập đại định. Trong đêm ấy, một đám cướp đi đánh cuớp trong một ngôi làng, chúng rút vào khu rừng đi ngang qua chỗ vị trưởng lão đang nhập định, chúng dừng chân nghĩ ngơi, mỗi người đặt gói đồ đã cướp được để trên tảng đá bằng phẳng bên cạnh vị trưởng lão mà chúng tưởng là gốc cây vì tối trời không nhìn rõ. Năm trăm gói đồ của năm trăm tên cướp chất vun lên che phủ toàn thân vị trưởng lão.

Bọn cướp nằm ngủ dưới chân tảng đá đến sáng thức giấc chúng lấy đồ mang đi mới phát hiện một thân người ngồi bất động.

Bọn cướp mới biết đêm qua nhầm tưởng gốc cây nên chất các gói đồ đè lên. Năm trăm tên cướp quì lạy xin sám hối vị trưởng lão. Tên đầu đảng xin xuất gia với trưởng lão, tất cả đám lâu la thấy vậy cũng xin xuất gia theo.

Trưởng lão đã truyền giới cho họ rồi dẫn về yết kiến đức Phật.

Trưởng lão Khāṇukoṇḍañña trình bạch tự sự cho đức Thế Tôn nghe.

Đức thế tôn phán dạy: Nầy các tỳ kheo, đối với người tạo nghiệp thiểu trí như vậy dù sống cả trăm năm cũng không bằng người sống một ngày mà hành động trí tuệ.

Rồi đức Phật đã nói lên bài kệ: “Yo ca vassasataṃ jīve … paññavantassa jhāyino ’ti”.

Dứt pháp thoại, năm trăm tỳ kheo ấy chứng quả A la hán với tứ tuệ đạt thông.

*

Chánh văn:

Yo ca vassasataṃ jīve

duppañño asamāhito

ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

paññavantassa jhāyino.

(dhp 111)

*

Thích văn:

duppañño [chủ cách số ít nam tính của hợp thể tính từ duppañña (du + paññā + a)] ác tuệ, thiểu trí, không có trí.

paññavantassa [sở thuộc cách số ít nam tính của danh tính từ paññavantu (paññā + vantu)] có trí tuệ, đối với người có trí.

*

Việt văn:

Người sống cả trăm năm

thiếu trí, không thiền định

sống một ngày tốt hơn

nếu có trí, có thiền.

(pc 111)

*

Chuyển văn:

Yo ca duppañño asamāhito vassasataṃ jīve paññavantassa jhāyino ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo.

Người sống cả trăm năm mà không có trí tuệ, không có thiền định, so với một ngày sống có trí tuệ, có thiền định vẫn tốt hơn.

*

Lý giải:

Duppañño (thiểu trí) nghĩa là nippañño (không trí tuệ).

Paññavantassa (có trí tuệ) đồng nghĩa với sapaññassa (người có trí).

Bài kệ nầy cũng có ý nghĩa như kệ số 110. Chỉ khác chút là đây nói đến người sống không có trí và người sống có trí.

Người sống không có trí tuệ, mưu sinh bằng những nghề tội lỗi hoặc làm những việc hại mình hại người. Người không có thiền định, tức là không có tu tập huấn luyện tâm theo phương pháp Chỉ Quán. Người như vậy dù có sống cả trăm năm cũng không tốt đẹp vì chẳng làm lợi ích cho mình cho tha nhân.

Người sống có trí tuệ, biết cân nhắc trong hành động, làm những nghề vô tội hoặc làm những việc lợi mình lợi người; Sống có tu tập thiền định luyện tâm theo phương pháp Chỉ và Quán, người như vậy dù chỉ sống một ngày cũng tốt hơn người sống trăm năm không trí tuệ không thiền định, vì cuộc sống có giá trị.

Tỳ khưu Tuệ Siêu biên soạn

Ý kiến bạn đọc