Môn học: PĀLI PHÁP CÚ | V. Phẩm Người Ngu_ Kệ số 13 (dhp 72)

Thứ năm, 13/10/2022, 09:42 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: PĀLI PHÁP CÚ

Bài học ngày 13.10.2022


V. Phẩm Người Ngu_ Kệ số 13 (dhp 72)

Duyên sự:

Bài kệ nầy đức Phật thuyết khi Ngài trú tại Veḷuvana gần thành Rājagaha, nhân câu chuyện tôn giả Mahāmoggallāna thuật lại giống ngạ quỉ búa đập đầu mà tôn giả đã thấy.

Cũng như trong câu chuyện trước, tôn giả Mahāmoggallāna và tôn giả Lakkhaṇa cùng từ núi Gijjhakūṭa đi xuống để vào thành Rājagaha khất thực, lúc trên núi xuống Ngài Mahāmoggallāna nhìn thấy một ngạ quỉ có hình thù kỳ lạ, cao lớn, trên đầu nó lúc nào cũng có nhiều búa được nung đỏ cứ giáng xuống làm bể đầu, bể rồi liền lại, rồi bị đập bể nữa.

Khi hai vị về tới Veḷuvana đảnh lễ đức Phật, tôn giả Mahāmoggallāna đã thuật lại sự việc tận mắt nhìn thấy loài ngạ quỉ bị búa đập đầu; Đức Phật xác nhận có loài ngạ quỉ ấy và chính Ngài cũng đã gặp rồi.

Chư tỳ kheo thỉnh cầu đức Phật giải về tiền nghiệp của ngạ quỉ ấy.

Đức Phật đã thuyết tiền nghiệp ngạ quỉ bị búa đập đầu.

Trong thời quá khứ, tại thành Bārāṇasī có một người què điêu luyện về tài búng sạn. Bọn trẻ trong thành thường cho bánh kẹo đến anh què để anh ta búng sạn thủng lá cây trên cành thành hình con vật theo yêu cầu.

Đức vua Bārānasī một một lần vi hành ra cổng thành thấy tay nghề của anh què bèn đem về cung đặt ngồi trong bức màn khoét lỗ đối diện với vị quan đại thần lắm lời. Người què búng những viên phân dê khô vào miệng vị quan ấy khi ông ta mở miệng cướp lời của vua. Vị quan sau việc đó đã bỏ tật nói nhiều. Vua rất hài lòng nên đã ban thưởng trọng hậu cho người què.

Một gã nọ thấy anh què nhờ tài búng sạn mà vinh hiển nên đến xin anh què dạy cho nghề búng sạn. Anh què tốt bụng đã đem sở trường dạy hết cho gã thanh niên.

Sau khi học tinh thông nghề, gã thanh niên muốn thử tay nghề bèn ra ngoại thành tìm mục tiêu bắn. Gã nhìn thấy một vị Độc Giác đang đi khất thực, gã nghĩ: bắn chết trâu bò dê cừu có chủ sẽ bị bồi thường, bắn chết người có cha mẹ vợ con sẽ bị họ trả thù; Vị sa môn nầy không có thân quyến dù ta bắn chết cũng không sao. Nghĩ vậy nên gã búng một viên sạn vào lỗ tai vị Độc Giác, viên sạn xuyên qua đầu khiến vị Độc Giác chết.

Gã khoe với mọi người về tài búng sạn của mình đã bắn xuyên lỗ tai vị sa môn. Dân chúng phẫn nộ bắt gã lại và đánh cho đến chết. Sau khi mệnh chung gã thanh niên nọ bị đoạ sanh địa ngục A-tỳ thật lâu, rồi quả dư sót gã sanh làm ngạ quỉ đầu bị búa đập như thế.

Nhắc tiền nghiệp của ngạ quỉ Saṭṭhīkūṭa xong, đức Phật đã nói lên bài kệ: “Yāvadeva anatthāya … muddhamassa vipātayaṃ”.

Dứt bài kệ có nhiều tỳ kheo đắc thánh quả.

*

Chánh văn:

Yāvadeva anatthāya

ñattaṃ bālassa jāyati

hanti bālassa sukkaṃsaṃ

muddhamassa vipātayaṃ.

(dhp 72)

*

Thích văn:

yāvadeva [bất biến từ “yāva +d + eva”] đồng thời là, chỉ để.

anatthāya [chỉ định cách số ít của danh từ nam tính anattha (na + attha)] điều bất hạnh, sự bất lợi, sự tai hại.

ñattaṃ [chủ cách số ít của danh từ trung tính ñatta] tri thức, kiến thức, tài năng.

bālassa [chỉ định cách số ít của danh từ nam tính bāla] cho kẻ ngu, đến kẻ ngu.

jāyati [động từ hiện tại ngôi III số ít (căn jan + ya)] sản sinh, hình thành, có được.

hanti [động từ hiện tại ngôi III số ít (căn han + a) = hanati hoặc hanti. Căn nầy có hai hình thức động từ ngôi III số ít] tổn hại, thiệt hại.

bālassa [chữ bālassa trong câu 3 của bài kệ là sở thuộc cách số ít của danh từ nam tính bāla] của kẻ ngu, của người ngu.

sukkaṃsaṃ [đối cách số ít của hợp thể danh từ nam tính và trung tính sukkaṃsa (sukka + aṃsa)] vận may, phần sáng sủa.

muddhamassa [hợp âm muddhaṃ assa]

muddhaṃ [đối cách số ít của danh từ nam tính muddha] đỉnh đầu, đầu não, đầu óc.

assa [sở thuộc cách số ít nam tính của đại từ ima] của người nầy, của nó.

vipātayaṃ [chủ cách số ít trung tính của hiện tại phân từ vipātayanta (động từ vipātayativipāteti “vi + căn pat”] nghiền nát, đánh ngã, làm sụp đổ.

*

Việt văn:

Tài năng đến kẻ ngu

chỉ để đem bất hạnh

kẻ ngu thiệt vận may

nó suy sụp não đầu.

(pc 72)

*

Chuyển văn:

Bālassa jāyati ñattaṃ yāvadeva anatthāya, bālassa muddhaṃ vipātayaṃ assa sukkaṃsaṃ hanti.

Tài năng có cho kẻ ngu chỉ để đem bất hạnh, tài đánh mất lương tri của kẻ ngu và làm thiệt hại số phần sáng sủa của nó.

*

Lý giải:

Có tài mà không có đức thì ắt bại vong.

Tài năng có cho kẻ ngu chỉ để đem lại bất hạnh thôi, vì kẻ ngu khi có tài năng nó không biết dùng sở trường để làm lợi ích cho mình, lợi ích cho người, mà thi thố tài năng không đúng cách, không đúng chỗ, nên phải bị hư hoại.

Tài năng của kẻ ngu đánh mất lương tri của nó, tự đập nát cái đầu.

Tài năng của kẻ ngu tiêu diệt vận may của nó, tự huỷ hoại số phần sáng sủa.

Người què nhờ có tài búng sạn mà vinh hiển, được vua khen thưởng, vì người ấy hiền lành chơn chất, không dùng tài năng gây ra tội ác.

Còn chàng thanh niên nọ học lấy tài búng sạn nhưng ngu si thiểu trí, đã dùng tài năng gây ra ác nghiệp nên bị quả khổ đau, vận mệnh đen tối.

Tỳ khưu Tuệ Siêu biên soạn

Ý kiến bạn đọc