- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 9.8.2022
TÂM MA, TÂM PHẬT ĐỀU LÀ TỰ TÂM
Kinh Nikkhanta (Nikkhantasuttaṃ)
(CHƯƠNG VIII. TƯƠNG ƯNG TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA) (S. i, 185)
Cuộc sống luôn là giao thoa giữa tâm và cảnh. Ở đó mang cả hai yếu tố chi phối chủ quan và khách quan. Tác động của cảnh vốn là điều không tránh khỏi. Để nắm được thế chủ động cần khẳng định địa bàn phản công là nội tâm. Ở đó có cả hai tâm ma và tâm phật. Người khôn ngoan không đổ lỗi cho ngoại cảnh để thúc thủ quy hàng mà tự mình phát huy nội lực. Có lúc hành giả đối diện với Ác ma là đối diện với chính mình. Biết vững trú trong Pháp như võ sĩ biết dùng trung bình tấn. Niềm tin ở Phật như mặt trời tỏ rạng xua tan bóng tối của Ma chướng. Tâm Phật (minh sát) và tâm ma đều ở nội tại. Vấn đề ở đâu thì giải pháp ở đó.
Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā vaṅgīso āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye āyasmatā nigrodhakappena upajjhāyena saddhiṃ. Tena kho pana samayena āyasmā vaṅgīso navako hoti acirapabbajito ohiyyako vihārapālo.
Tôi được nghe như vầy,
Thuở ấy Tôn giả Vaṅgīsa trú tại ngôi đền Aggāḷava, ở Āḷavī cùng với thầy truyền giới là Tôn giả Nigrodha Kappa. Lúc ấy Tôn giả Vaṅgīsa vừa mới xuất gia một mình ở lại trông chừng tịnh xá.
Atha kho sambahulā itthiyo samalaṅkaritvā yena aggāḷavako ārāmo tenupasaṅkamiṃsu vihārapekkhikāyo. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa tā itthiyo disvā anabhirati uppajjati, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘alābhā vata me, na vata me lābhā; dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ; yassa me anabhirati uppannā, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti, taṃ kutettha labbhā, yaṃ me paro anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya. Yaṃnūnāhaṃ attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya’’nti.
Có một số phụ nữ ăn diện đẹp đẽ đến vườn Aggāḷava viếng chùa. Tôn giả thấy những vị nầy lòng dục sanh khởi khiến tâm tư khó chịu. Rồi Tôn giả tự nghĩ: Thật là bất lợi cho ta, thật là mất mát cho ta, thật là điều không may cho ta khi lòng dục sanh khởi nơi ta, khi sự khó chịu sanh khởi nơi ta. Ai có thể dập tắt sự khó chịu và khiến mình tịnh lạc? Ta hãy tự mình dập tắt sự khó chịu và khiến mình tịnh lạc.
Atha kho āyasmā vaṅgīso attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādetvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
‘‘Nikkhantaṃ vata maṃ santaṃ, agārasmānagāriyaṃ;
Vitakkā upadhāvanti, pagabbhā kaṇhato ime.
‘‘Uggaputtā mahissāsā, sikkhitā daḷhadhammino;
Samantā parikireyyuṃ, sahassaṃ apalāyinaṃ.
‘‘Sacepi etato bhiyyo, āgamissanti itthiyo;
Neva maṃ byādhayissanti dhamme samhi patiṭṭhitaṃ.
‘‘Sakkhī hi me sutaṃ etaṃ, buddhassādiccabandhuno;
Nibbānagamanaṃ maggaṃ, tattha me nirato mano.
‘‘Evañce maṃ viharantaṃ, pāpima upagacchasi;
Tathā maccu karissāmi, na me maggampi dakkhasī’’ti.
Tôn giả Vaṅgīsa sau khi tự mình dập tắt sự khó chịu và khiến mình tịnh lạc đã nói lên kệ ngôn nầy:
“Ô hay, mình đi tu
Bỏ nhà sống không nhà
Nội tâm vẫn loạn động
Với tư duy Hắc Ám.
“Ngàn chiến binh thiện xạ
Từ giòng giống Ugga
Với cung tiễn bao quanh
Không làm ta nao núng.
“Nếu nữ nhân đến đây
Với số lượng nhiều hơn
Không khiến ta giao động
Vì vững trú trong pháp.
“Ta chính mình được nghe
Từ Phật, giòng Đại Nhật
Con đường đến Niết bàn
Cảnh giới ta hoan hỷ.
“Ta an trú như vậy
Dù Ác ma có đến
Thần Chết, ta cam đoan
Không thấy đường ta đi!
(Bổ túc sau)
Tôn giả Vaṅgīsa nguyên là một bà la môn tinh thông Phệ Đà. Vị nầy nổi tiếng với khả năng biết được cảnh giới siêu đoạ của một người chết bằng cách búng tay vào xương sọ. Một lần bà la môn Vaṅgīsa đến gặp Đức Phật mặc dù có nhiều khuyên ngăn từ những người bạn. Đức Phật đã đưa cho ông xương sọ của một vị A la hán. Ông cố gắng nhưng không thể biết cảnh giới tái sanh của người đã mất. Điều nầy khiến Ông muốn xuất gia để tìm ra bí mật về những đệ tử Phật. Sau nầy khi tu tập án xứ thể trược của thân vị nầy chứng quả A la hán. Tôn giả Vaṅgīsa được Đức Phật xác chứng là bậc đệ tử đứng đầu về khả năng “xuất khẩu thành thi” (patibhānavantānam).
Chữ Kaṇhato – thần bóng tối, Thần Hắc Ám – một tên gọi khác của Ác Ma.
Uggaputta – là những thanh niên cường tráng được biết với sự tinh nhuệ khi giao tranh. Theo Sớ giải những người gọi là ugga là những đứa con lai của hai giai cấp sát đế lỵ và thủ đà. Khi những người đàn ông giai cấp Sát đế lỵ ăn nằm với phụ nữ giai cấp cùng đinh (thủ đà) sanh ra con trai thì những đứa con trai thường làm trong ngày chấp pháp hay quân đội. Họ thường được biết là đảm lược và thiện chiến.
Cụm từ buddhassādiccabandhuno – Đức Phật dòng dõi Mặt Trời (Đại Nhật) là cụm từ xưng tán Phật vì trong ngôn ngữ Ấn Độ mặt trời là biểu tượng của quang minh, của thiêng liêng trong Đạo Thờ Thần Lửa (Minh Giáo, Bái Hoả Giáo). Ở đây là một cách nói bóng bẩy: Ác ma là Thần Bóng Tối (Kaṇhato) đối lập với Phật là mặt nhật quang minh.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
1. Nikkhantasuttaṃ [Mūla]
209. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā vaṅgīso āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye āyasmatā nigrodhakappena upajjhāyena saddhiṃ. Tena kho pana samayena āyasmā vaṅgīso navako hoti acirapabbajito ohiyyako vihārapālo. Atha kho sambahulā itthiyo samalaṅkaritvā yena aggāḷavako ārāmo tenupasaṅkamiṃsu vihārapekkhikāyo. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa tā itthiyo disvā anabhirati uppajjati, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘alābhā vata me, na vata me lābhā; dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ; yassa me anabhirati uppannā, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti, taṃ kutettha labbhā, yaṃ me paro anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya. Yaṃnūnāhaṃ attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya’’nti. Atha kho āyasmā vaṅgīso attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādetvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
‘‘Nikkhantaṃ vata maṃ santaṃ, agārasmānagāriyaṃ;
Vitakkā upadhāvanti, pagabbhā kaṇhato ime.
‘‘Uggaputtā mahissāsā, sikkhitā daḷhadhammino;
Samantā parikireyyuṃ, sahassaṃ apalāyinaṃ.
‘‘Sacepi etato [ettato (sī. pī. ka.), ettakā (syā. kaṃ.)] bhiyyo, āgamissanti itthiyo; Neva maṃ byādhayissanti [byāthayissanti (?)], dhamme samhi patiṭṭhitaṃ.
‘‘Sakkhī hi me sutaṃ etaṃ, buddhassādiccabandhuno;
Nibbānagamanaṃ maggaṃ, tattha me nirato mano.
‘‘Evañce maṃ viharantaṃ, pāpima upagacchasi;
Tathā maccu karissāmi, na me maggampi dakkhasī’’ti.
1. Nikkhantasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
209. Vaṅgīsasaṃyuttassa paṭhame aggāḷave cetiyeti āḷaviyaṃ aggacetiye. Anuppanne buddhe aggāḷavagotamakādīni yakkhanāgādīnaṃ bhavanāni, cetiyāni ahesuṃ. Uppanne buddhe tāni apanetvā manussā vihāre kariṃsu. Tesaṃ tāneva nāmāni jātāni. Nigrodhakappenāti nigrodharukkhamūlavāsinā kappattherena. Ohiyyakoti ohīnako. Vihārapāloti so kira tadā avassiko hoti pattacīvaraggahaṇe akovido. Atha naṃ therā bhikkhū – ‘‘āvuso, imāni chattupāhanakattarayaṭṭhiādīni olokento nisīdā’’ti vihārarakkhakaṃ katvā piṇḍāya pavisiṃsu. Tena vuttaṃ ‘‘vihārapālo’’ti. Samalaṅkaritvāti attano vibhavānurūpena alaṅkārena alaṅkaritvā. Cittaṃ anuddhaṃsetīti kusalacittaṃ viddhaṃseti vināseti. Taṃ kutettha labbhāti etasmiṃ rāge uppanne taṃ kāraṇaṃ kuto labbhā. Yaṃ me paroti yena me kāraṇena añño puggalo vā dhammo vā anabhiratiṃ vinodetvā idāneva abhiratiṃ uppādeyya ācariyupajjhāyāpi maṃ vihāre ohāya gatā.
Agārasmāti agārato nikkhantaṃ. Anagāriyanti pabbajjaṃ upagatanti attho. Kaṇhatoti kaṇhapakkhato mārapakkhato ādhāvanti. Uggaputtāti uggatānaṃ puttā mahesakkhā rājaññabhūtā. Daḷhadhamminoti daḷhadhanuno, uttamappamāṇaṃ ācariyadhanuṃ dhārayamānā. Sahassaṃ apalāyinanti ye te samantā sarehi parikireyyuṃ, tesaṃ apalāyīnaṃ saṅkhaṃ dassento ‘‘sahassa’’nti āha. Etato bhiyyoti etasmā sahassā atirekatarā. Neva maṃ byādhayissantīti maṃ cāletuṃ na sakkhissanti. Dhamme samhi patiṭṭhitanti anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādanasamatthe sake sāsanadhamme patiṭṭhitaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – issāsasahasse tāva samantā sarehi parikirante sikkhito puriso daṇḍakaṃ gahetvā sabbe sare sarīre apatamāne antarāva paharitvā pādamūle pāteti. Tattha ekopi issāso dve sare ekato na khipati, imā pana itthiyo rūpārammaṇādivasena pañca pañca sare ekato khipanti. Evaṃ khipantiyo etā sacepi atirekasahassā honti, neva maṃ cāletuṃ sakkhissantīti.
Sakkhī hi me sutaṃ etanti mayā hi sammukhā etaṃ sutaṃ. Nibbānagamanaṃ magganti vipassanaṃ sandhāyāha. So hi nibbānassa pubbabhāgamaggo, liṅgavipallāsena pana ‘‘magga’’nti āha. Tattha meti tasmiṃ me attano taruṇavipassanāsaṅkhāte nibbānagamanamagge mano nirato. Pāpimāti kilesaṃ ālapati. Maccūtipi tameva ālapati. Na me maggampi dakkhasīti yathā me bhavayoniādīsu gatamaggampi na passasi, tathā karissāmīti. Paṭhamaṃ.