Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ ĂN ÍT SỐNG LÂU _ Kinh Ăn Quá Độ (Doṇapākasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ ĂN ÍT SỐNG LÂU _ Kinh Ăn Quá Độ (Doṇapākasuttaṃ)

, 25/12/2021, 12:30 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 25.12.2021


ĂN ÍT SỐNG LÂU

Kinh Ăn Quá Độ (Doṇapākasuttaṃ)

(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ HAI) (S.i, 81)

Đức Phật có những lời dạy thực tiễn cho cuộc sống. Trong kinh điển ghi lại những huấn ngôn của Đức Phật dạy về cách sống lành mạnh cả hai phương diện thân và tâm. Ngày nay trước sự hưng thịnh về kinh tế càng ngày y học càng xác nhận rõ rất nhiều bệnh do dư thừa calorie. Ăn uống tiết độ, chừng mực là chìa khoá giữa sức khoẻ tốt. Lời dạy của Đức Thế Tôn đã khiến vua Pasenadi có được sức khoẻ tốt hơn. Và là điều rất đẹp khi nhà vua cảm kích được lòng bi mẫn của Đức Phật.


ĂN ÍT SỐNG LÂU - Kinh Doṇapāka (Doṇapākasuttaṃ)

Sāvatthinidānaṃ.

Tại Sāvatthi.

Tena kho pana samayena rājā pasenadi kosalo doṇapākakuraṃ [doṇapākasudaṃ (sī.), doṇapākaṃ sudaṃ (pī.)] bhuñjati.

Thuở ấy vua Pasenadi xứ Kosala thường ăn rất no trong trong các bữa cơm.

Atha kho rājā pasenadi kosalo bhuttāvī mahassāsī yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Rồi vua Pasenadi xứ Kosala sau khi ăn quá no chậm chạp nặng nề đi đến Thế Tôn đảnh lễ và ngồi xuống một bên.

Atha kho bhagavā rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhuttāviṃ mahassāsiṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

Rồi Thế Tôn từ sự việc vua Pasenadi xứ Kosala sau khi ăn quá no chậm chạp nặng nề đã nói lên kệ ngôn:

‘‘Manujassa sadā satīmato,

Mattaṃ jānato laddhabhojane;

Tanukassa bhavanti vedanā,

Saṇikaṃ jīrati āyupālaya’’nti.

Người sống có chánh niệm,

Biết tiết độ ẩm thực,

Được cảm thọ nhẹ nhàng,

Sống lâu, chậm lão hoá.

Tena kho pana samayena sudassano māṇavo rañño pasenadissa kosalassa piṭṭhito ṭhito hoti.

Lúc bấy giờ Bà-la-môn trẻ tuổi Sudassana đứng sau lưng vua Pasenadi xứ Kosala.

Atha kho rājā pasenadi kosalo sudassanaṃ māṇavaṃ āmantesi –

Rồi vua Pasenadi xứ Kosala nói với Sudassana:

‘‘ehi tvaṃ, tāta sudassana, bhagavato santike imaṃ gāthaṃ pariyāpuṇitvā mama bhattābhihāre (bhattābhihāre) [( ) sī. syā. kaṃ. pī. potthakesu natthi] bhāsa. Ahañca te devasikaṃ kahāpaṇasataṃ (kahāpaṇasataṃ) [( ) sī. syā. kaṃ. potthakesu natthi] niccaṃ bhikkhaṃ pavattayissāmī’’ti.

Nầy hiền khanh, hãy học thuộc lòng kệ ngôn từ Đức Thế Tôn. Mỗi lần dọn ăn cho ta hãy đọc kệ ngôn nầy. Ta sẽ thưởng thường xuyên cho khanh một trăm đồng vàng.

‘‘Evaṃ devā’’ti

-- Thưa vâng, Ðại vương.

kho sudassano māṇavo rañño pasenadissa kosalassa paṭissutvā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ pariyāpuṇitvā rañño pasenadissa kosalassa bhattābhihāre sudaṃ bhāsati –

Thanh niên Sudassana vâng lệnh nhà vua học thuộc lòng kệ ngôn từ Đức Thế Tôn. Mỗi lần dọn ăn cho vua Pasenadi đã đọc kệ ngôn nầy:

‘‘Manujassa sadā satīmato,

Mattaṃ jānato laddhabhojane;

Tanukassa bhavanti vedanā,

Saṇikaṃ jīrati āyupālaya’’nti.

Người sống có chánh niệm,

Biết tiết độ ẩm thực,

Được cảm thọ nhẹ nhàng,

Sống lâu, chậm lão hoá.

Atha kho rājā pasenadi kosalo anupubbena nāḷikodanaparamatāya [nāḷikodanamattāya (ka.)] saṇṭhāsi.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala tiết giảm từ từ mức độ ăn uống cho tới khi chỉ còn khoảng một chén mỗi bữa ăn.

Atha kho rājā pasenadi kosalo aparena samayena susallikhitagatto pāṇinā gattāni anumajjanto tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesi – ‘‘ubhayena vata maṃ so bhagavā atthena anukampi – diṭṭhadhammikena ceva atthena samparāyikena cā’’ti.

Sau một thời gian Vua Pasenadi được khang kiện, tự thoa bóp chân tay và thốt lên lời cảm hứng : "Thế Tôn thật sự thương tưởng ta, nghĩ đến lợi lạc cho ta đời hiện tại và kiếp sau"


‘‘Manujassa sadā satīmato Khi một người luôn có chánh niệm
Mattaṃ jānato laddhabhojane Biết điều độ trong ẩm thực
Tanukassa bhavanti vedanā Được cảm thọ không nặng nề
Saṇikaṃ jīrati āyupālaya’’nti

Người ấy chậm lão hoá, và gìn giữ thọ mạng lâu dài

Theo Sớ giải thì nhà vua thường ăn một tô lớn (doṇa) cơm, cà ri và súp (pākakuraṃ).

Nālịka là một chén cơm. Khó biết chính xác trong sự so sánh giữa doṇa và nālika. Tuy nhiên có thể hiểu là có sự chênh lệch lớn về thể tích.

Theo Sớ giải thì Đức Phật dạy thanh niên Sudassana đọc kệ ngôn khi thấy nhà vua ăn tới mức độ vừa phải chứ không phải là đọc trước khi ăn.

Biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

3. Doṇapākasuttaṃ [Mūla]

124. Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena rājā pasenadi kosalo doṇapākakuraṃ [doṇapākasudaṃ (sī.), doṇapākaṃ sudaṃ (pī.)] bhuñjati. Atha kho rājā pasenadi kosalo bhuttāvī mahassāsī yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Atha kho bhagavā rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhuttāviṃ mahassāsiṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Manujassa sadā satīmato,

Mattaṃ jānato laddhabhojane;

Tanukassa [tanu tassa (sī. pī.)] bhavanti vedanā,

Saṇikaṃ jīrati āyupālaya’’nti.

Tena kho pana samayena sudassano māṇavo rañño pasenadissa kosalassa piṭṭhito ṭhito hoti. Atha kho rājā pasenadi kosalo sudassanaṃ māṇavaṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, tāta sudassana, bhagavato santike imaṃ gāthaṃ pariyāpuṇitvā mama bhattābhihāre (bhattābhihāre) [( ) sī. syā. kaṃ. pī. potthakesu natthi] bhāsa. Ahañca te devasikaṃ kahāpaṇasataṃ (kahāpaṇasataṃ) [( ) sī. syā. kaṃ. potthakesu natthi] niccaṃ bhikkhaṃ pavattayissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ devā’’ti kho sudassano māṇavo rañño pasenadissa kosalassa paṭissutvā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ pariyāpuṇitvā rañño pasenadissa kosalassa bhattābhihāre sudaṃ bhāsati –

‘‘Manujassa sadā satīmato,

Mattaṃ jānato laddhabhojane;

Tanukassa bhavanti vedanā,

Saṇikaṃ jīrati āyupālaya’’nti.

Atha kho rājā pasenadi kosalo anupubbena nāḷikodanaparamatāya [nāḷikodanamattāya (ka.)] saṇṭhāsi. Atha kho rājā pasenadi kosalo aparena samayena susallikhitagatto pāṇinā gattāni anumajjanto tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesi – ‘‘ubhayena vata maṃ so bhagavā atthena anukampi – diṭṭhadhammikena ceva atthena samparāyikena cā’’ti.

3. Doṇapākasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

124. Tatiye doṇapākakuranti doṇapākaṃ kuraṃ, doṇassa taṇḍulānaṃ pakkabhattaṃ tadūpiyañca sūpabyañjanaṃ bhuñjatīti attho. Bhuttāvīti pubbe bhattasammadaṃ vinodetvā muhuttaṃ vissamitvā buddhupaṭṭhānaṃ gacchati, taṃdivasaṃ pana bhuñjantova dasabalaṃ saritvā hatthe dhovitvā agamāsi. Mahassāsīti tassa gacchato balavā bhattaparīḷāho udapādi, tasmā mahantehi assāsehi assasati, gattatopissa sedabindūni muccanti, tamenaṃ ubhosu passesu ṭhatvā yamakatālavaṇṭehi bījanti, buddhagāravena pana nipajjituṃ na ussahatīti idaṃ sandhāya ‘‘mahassāsī’’ti vuttaṃ. Imaṃ gāthaṃ abhāsīti, rājā bhojane amattaññutāya kilamati, phāsu vihāraṃ dānissa karissāmīti cintetvā abhāsi. Manujassāti sattassa. Kahāpaṇasatanti pātarāse paṇṇāsaṃ sāyamāse paṇṇāsanti evaṃ kahāpaṇasataṃ. Pariyāpuṇitvāti raññā saddhiṃ thokaṃ gantvā ‘‘imaṃ maṅgalaasiṃ kassa dammi, mahārājā’’ti? Asukassa nāma dehīti so taṃ asiṃ datvā dasabalassa santikaṃ āgamma vanditvā ṭhitakova ‘‘gāthaṃ vadatha, bho gotamā’’ti vatvā bhagavatā vuttaṃ pariyāpuṇitvāti attho.

Bhattābhihāre sudaṃ bhāsatīti kathaṃ bhāsati? Bhagavatā anusiṭṭhiniyāmena. Bhagavā hi naṃ evaṃ anusāsi – ‘‘māṇava, imaṃ gāthaṃ naṭo viya pattapattaṭṭhāne mā avaca, rañño bhuñjanaṭṭhāne ṭhatvā paṭhamapiṇḍādīsupi avatvā vosānapiṇḍe gahite vadeyyāsi, rājā sutvāva bhattapiṇḍaṃ chaḍḍessati. Atha rañño hatthesu dhotesu pātiṃ apanetvā sitthāni gaṇetvā tadupiyaṃ byañjanaṃ ñatvā punadivase tāvatake taṇḍule hāreyyāsi, pātarāse ca vatvā sāyamāse mā vadeyyāsī’’ti. So sādhūti paṭissuṇitvā taṃdivasaṃ rañño pātarāsaṃ bhutvā gatattā sāyamāse bhagavato anusiṭṭhiniyāmena gāthaṃ abhāsi. Rājā dasabalassa vacanaṃ saritvā bhattapiṇḍaṃ pātiyaṃyeva chaḍḍesi. Rañño hatthesu dhotesu pātiṃ apanetvā sitthāni gaṇetvā tadupiyaṃ byañjanaṃ ñatvā punadivase tattake taṇḍule hariṃsu.

Nāḷikodanaparamatāya saṇṭhāsīti so kira māṇavo divase divase tathāgatassa santikaṃ gacchati, dasabalassa vissāsiko ahosi. Atha naṃ ekadivasaṃ pucchi ‘‘rājā kittakaṃ bhuñjatī’’ti? So ‘‘nāḷikodana’’nti āha. Vaṭṭissati ettāvatā purisabhāgo esa, ito paṭṭhāya gāthaṃ mā vadīti. Iti rājā tattheva saṇṭhāsi. Diṭṭhadhammikena ceva atthena samparāyikena cāti ettha sallikhitasarīratā diṭṭhadhammikattho nāma, sīlaṃ samparāyikattho. Bhojane mattaññutā hi sīlaṅgaṃ nāma hotīti. Tatiyaṃ.