Môn học: PHẬT PHÁP CƠ BẢN || Phần III: Ứng Dụng Lời Phật Dạy - Tác Phước

Thứ hai, 27/05/2024, 08:08 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: Phật Pháp Cơ Bản

Bài học ngày 27.5.2024

Phần III: Ứng Dụng Lời Phật Dạy

TÁC PHƯỚC

 

Tác phước hay tạo phước là điểm quan trọng đối với người Phật tử trong mọi lãnh vực từ xã hội, văn hoá, sinh hoạt hằng ngày, cho đến sự tu tập. Nếu không hiểu rõ về phước và việc tạo phước, sẽ không hiểu về văn hoá và xã hội của những vùng đất mang ảnh hưởng Phật giáo. Vì là một phạm trù rộng lớn, nên quan niệm về “phước” thường có những dị biệt bất đồng, thậm chí những ngộ nhận mâu thuẫn. Có ba trọng điểm được đề cập tại đây:

  1. Phước báu
  2. Phước nghiệp
  3. Phước thí

 

  1. PHƯỚC BÁU

Chữ phước là thuật ngữ để dịch từ Phạm ngữ “puñña” là cách tạm dịch. Cách dùng chữ “phước” theo quan niệm phổ thông có nhiều điểm bất cập, so với ý nghĩa của chữ “puñña”. Trong cụm từ “phước, lộc, thọ” thì phước chỉ cho “con đàn, cháu đống” hay đông đảo con cháu kế thừa. Trong cụm từ “phước huệ song tu”, thì phước được hiểu như sự sung mãn hạnh phúc vật chất, danh tiếng, điạ vị, quyến thuộc, nói chung là phước báu thế gian, đối lập với trí tuệ giác ngộ giải thoát. Ngay cả cụm từ “phước đức”, thì cũng hàm ý sự sung mãn cuộc sống bên ngoài đối lập với chất liệu tốt lành nội tâm (cũng gọi là tâm đức).

Chữ “puñña” thật ra không thể chuyển ngữ hoàn toàn chính xác bằng một danh từ. Ngay cả một số định nghĩa trong Sớ giải Pāli, như câu "santanaṃ punāti visodheti – cái gì làm cho thanh tịnh sự hiện hữu là phước" cũng chỉ nói lên một khía cạnh. Cách tốt nhất để hiểu thuật ngữ này là cái nhìn chung với nhiều phương diện được ghi trong Tam Tạng.

Phước là sự nâng đỡ hay duy trì sự tồn tại tốt đẹp. Như một đoá hoa nở đẹp cần nước, nhiệt độ thích hợp … Khi thiếu những tố chất thì hoa tàn. Hay như một toà nhà đứng vững là do lực nâng đỡ của cấu trúc và vật liệu tương thích. Những tồn tại tốt đẹp trong cuộc sống như tiện nghi, tình thương, thành công trong công việc đều có yếu tố của phước báu.

Phước là cái gì đối lập với quả của ác nghiệp. Như khả năng đề kháng của thân giúp miễn nhiễm đối với virus, phước báu giúp chúng sanh chống lại những xâm hại của những “thế lực đen” gây thương tổn. Đây là một trong những ý nghĩa gần nhất của chữ “puñña”.

Phước là năng lực tạo nên sự bằng lòng toại ý. Đây là điểm khiến đa số thấy hạnh phúc trong cuộc sống. Làm được những gì mình muốn; gần với người mình thương, tìm được cái mình mong cầu là vài thí dụ về điểm này. Với một người không hiểu nhân quả nghiệp báo, thì những điều này thường được xem là “số hên” hay “sự may mắn”.

Phước thể hiện qua những thuận duyên, thuận cảnh. Thí dụ, người trên đường tạo dựng sự nghiệp gặp “quới nhân” hay người đi tu gặp danh sư, thiện hữu hoặc người có tài lại gặp thời như diều gặp gió. Có cố gắng mà không thành tựu thì là do thiếu phước bổ trợ.

Phước khiến người ta làm những quyết định chính xác, khôn ngoan như câu “phước chí tâm linh”. Khi đối diện với hoàn cảnh phức tạp, phải làm quyết định hệ trọng, người có phước đôi khi có lựa chọn tốt, không phải tính toán tốt mà do “sự cảm ứng khó nói”. Trái lại, khi thiếu phước hay do quả nghiệp ác chi phối thì “ma đưa lối, quỷ dẫn đường / Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”.

Phước tạo nên tâm tánh tốt đẹp. Đây là trường hợp người tái sinh bằng kiết sanh thức có trí tuệ, có thọ hỷ, có sự nhậm lẹ. Sau kiết sanh thức là tiềm thức (bhavaṅga) cũng mang tố chất tương tự. Chính điều này tạo nên tâm tánh an lạc, lương thiện, mẫn tiệp … Đối với người tu tập, thì những nền tảng tốt như tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng là phước từ thiện nghiệp quá khứ.

Phước chính là nguyên nhân sâu xa tạo nên cá tính đáng quý. Cá tính (personality) theo Phật Pháp là tập tính, thói quen tốt được huân tập do thường tạo nghiệp lành trong quá khứ. Người sống đàng hoàng, tính tình hào sảng, ưa thích thân cận bạn lành … là một số thí dụ về cá tính tốt đẹp, do thói quen trong quá khứ như Thắng Pháp đề cập năng lực của “thường thân y duyên”.

Phước báu là mãnh lực dẫn tới sự tái sanh vào cõi an lạc. Cảnh giới an lạc theo Phật Pháp gồm những “cõi vui dục giới”, các cõi sắc giới, các cõi vô sắc giới. Cõi nhân loại được xem là “cõi an lạc”, nhưng cũng có nhiều dị biệt do phước báu đa thiểu. Không phải là người tạo thiện nghiệp chắc chắn được sanh vào cõi an lạc, nhưng nếu thiện nghiệp trổ quả thì cảnh giới tái sanh chắc chắn là cảnh giới tốt lành.

Phước báu là yếu tố thiết yếu để đoạn tận nghiệp và giải thoát sanh tử. Phước báu vô lậu hay phước báu ba la mật (pāramitā), có thể hiểu là “nghiệp lành dẫn tới đoạn tận nghiệp lực”. Đây là phước báu do sự tu tập đưa hành giả đến đích điểm “đoạn tận kiết sử, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn” hay quả vị siêu thế. Nói nôm na như người cố gắng học để rồi đạt tới chỗ không cần học nữa. Đây là hành trình được chư Phật vốn đã kinh qua, chứng đạt và truyền dạy.

 

Có rất nhiều bài kinh về puñña được tìm thấy trong Tam Tạng. Bài kinh dưới đây là đơn cử về ý nghĩa rộng lớn của phước báu. Chữ “công đức” trong bài kinh này tương đồng với chữ phước báu.

Kinh Huân Tập Công Ðức

Nidhikaṇḍasuttaṃ
Nidhiṃ nidheti puriso
Gambhīre udakantike
Atthe kicce samuppanne
Atthāya me bhavissati.
Rājato vā duruttassa
Corato pīḷitassa vā
Iṇassa vā pamokkhāya
Dubbhikkhe āpadāsu vā
Etadatthāya lokasmiṃ
Nidhi nāma nidhīyati.
Tāvassunihito santo
Gambhīre udakantike
Na sabbo sabbadā yeva
Tassa taṃ upakappati.

Người chôn giấu tài sản
Nơi hang sâu mực nước
Dụng tâm lúc hữu sự
Bị phép nước luật vua
Hay gặp phải cường hào
Ðem chuộc thân giữ mạng
Hoặc trang trải nợ nần
Hoặc phòng cơn đói kém
Sự cất giấu như vậy
Là thường tình thế gian
Vị tất đã an toàn

Nidhi vā ṭhānā cavati
Saññā vāssa vimuyhati
Nāgā vā apanāmenti
Yakkhā vāpi haranti naṃ
Appiyā vāpi dāyādā
Uddharanti apassato
Yadā puññakkhayo hoti
Sabbametaṃ vinassati

Dù chôn sâu giấu kín
Có khi bị thất thoát
Vì tài chủ lãng quên
Hay long chủng dời đổi
Dạ xoa đoạt mang đi
Hay bị kẻ thừa tự
Sanh lòng tham đánh cắp
Hoặc hết phước làm chủ
Tài sản tự biến mất

Yassa dānena sīlena
Saññamena damena ca
Nidhī sunihito hoti
Itthiyā purisassa vā
Cetiyamhi ca saṅghe vā
puggale atithīsu vā
Mātari pitari vāpi
Atho jeṭṭhamhi bhātari
Eso nidhi sunihito
Ajeyyo anugāmiko
Pahāya gamanīyesu
Etaṃ ādāya gacchati

Ai bố thí trì giới
Phòng hộ và tự chế
Gọi cất giữ tài sản
Bảo đảm và an toàn
Ai cúng dường đền tháp
Năng phụng dưỡng mẹ cha
Hậu đãi bậc huynh trưởng
Hay khách khứa láng giềng
Khéo cất giữ như vậy
Không ai chiếm đoạt được

Asādhāraṇamaññesaṃ
Acoraharaṇo nidhi
Kayirātha dhīro puññāni
Yo nidhi anugāmiko

Esa devamanussānaṃ
Sabbakāmadado nidhi
Yaṃ yaṃ devābhipatthenti
Sabbametena labbhati.

Khi mạng sống chấm dứt
Bao của tiền bỏ lại
Chỉ mang theo phước đức
Phước là tài sản thật
Không thể bị chiếm đoạt
Bậc trí tạo phúc nghiệp
Thứ tài sản đáng quí
Khiến trời người các cõi
Ðược mãn nguyện hài lòng

Suvaṇṇatā susaratā
Susaṇṭhānaṃ surūpatā
Àdhipaccaṃ parivāro
sabbametena labbhati

Padesarajjaṃ issariyaṃ
cakkavattisukhaṃ piyaṃ
Devarajjampi dibbesu
Sabbametena labbhati.

Người màu da tươi sáng
Giọng nói đẹp lòng người
Dung mạo nhìn dễ mến
Có phong cách đoan trang
Người quyền quí cao sang
Bậc vương triều tôn chủ
Bậc chuyển luân thánh chúa
Bậc thiên vương cõi trời
Tất cả quả lành này
Do công đức đã tạo

Mānusikā ca sampatti
Devaloke ca yā rati
Yā ca nibbānasampatti
Sabbametena labbhati

Những hạnh phúc trần gian
Cùng thiên lạc cõi trời
Quả niết bàn vô thượng
Tất cả quả lành này
Do công đức đã tạo

Mittasampadamāgamma
Yoniso ce payuñjato
Vijjāvimuttivasībhāvo
Sabbametena labbhati

Người có được bạn lành
Ðầy đủ chánh tư niệm
Ðạt chánh trí giải thoát
Tất cả quả lành này
Do công đức đã tạo

Paṭisambhidā vimokkhā ca
Yā ca sāvakapāramī
Paccekabodhi buddhabhūmi
Sabbametana labbhati

Bốn tuệ giác phân tích
Của thánh đệ tử Phật
Hay độc giác toàn giác
Tất cả quả lành này
Do công đức đã tạo

Evaṃ mahatthikā esā
Yadidaṃ puññasampadā
Tasmā dhīrā pasaṃsanti
Paṇḍitā katapuñññataṃ

Bởi lợi lạc to lớn
Của phước hạnh đã làm
Nên thiện nhân hiền trí
Tán thán và khuyến khích
Sự cất giấu tài sản
Bằng tích lũy phước lành

 

(Chúng tôi, tỳ khưu Giác Đẳng, khi dịch bản kinh này, ban đầu dùng chữ “phước báu” thay vì “công đức”, nhưng bấy giờ do yêu cầu của chư tăng duyệt y bản kinh tụng đề nghị, nên dùng chữ khác vì nhiều người hiểu “tu phước” là tu thấp, nên chúng tôi thay thế bằng chữ công đức mang tính tương đối về mặt ngữ nghĩa)

 

Nêu lưu ý vài điểm về mặt từ vựng.

Phước báo và phước báu có hai ý nghĩa khác nhau. Phước báu là quả tốt cao quý. Phước báo là quả của nghiệp lành. Chữ “báo” ở đây giống như “nghiệp báo”. Nghiệp là nhân, báo là quả.

Trong Anh ngữ, chữ “puñña” thường được dịch là “merit” như “hồi hướng phước” được dịch là “sharing merit” nghe rất “lạ tai”. Chữ “merit” trong Anh ngữ, vốn có nguồn gốc từ Ki Tô Giáo, có nghĩa là sự tưởng thưởng cho kẻ xứng đáng (deserving), như kinh cầu “xin Chúa bội hậu cho chúng con ...” do vậy “sự ban phước, tha tội” là sự đãi ngộ cho một người làm điều tốt lành gì đó. Người Trung Hoa dịch chữ “merit” là công đức hay “công quả” theo ý nghĩa “công thưởng, tội trừ”. Người Phật tử sử dụng với phân biệt cẩn trọng. (Một số từ vựng tôn giáo đương đại ở Trung Quốc vốn do ảnh hưởng Ki Tô Giáo, được dùng rộng rãi như Giáo Hội, hành hương, tuyên uý … cũng cần “chính danh” khi người Phật tử sử dụng)

 

Tỳ khưu Giác Đẳng biên soạn giáo trình.

Ý kiến bạn đọc