TƯƠNG ƯNG BỘ || Kinh Sông Hằng (Gaṅgāsuttaṃ)

TƯƠNG ƯNG BỘ || Kinh Sông Hằng (Gaṅgāsuttaṃ)

Wednesday, 30/08/2023, 05:36 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 29.8.2023

HẰNG HÀ SA SỐ

Kinh Sông Hằng (Gaṅgāsuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương IV. Tương Ưng Vô Thỉ – Phẩm Thứ Nhất (S.ii,183)

Trong cuộc đời có những thứ vốn hữu hạn nhưng khó tưởng tượng có thể bằng cách nào có thể đếm hết một cách chính xác. Thí dụ đơn cử ở đây là số cát của sông Hằng. Đó là dòng sông đầy cát từ thượng nguồn tới hạ lưu, tới khi ra biển cả. Những hạt cát rất b nhỏ tạo nên một đáy sông đầy cát dài mấy nghìn cây số. Con số ấy không ai đếm được là bao nhiêu nhưng chắc chắn là nhiều, nhưng số người đã sống trong châu thổ nầy hằng bao thế hệ chắc chắc là nhiều; những câu chuyện về tôn giáo, văn hoá, điển cố có thể nói là vô số kể; những ảnh hưởng xuyên thời gian, không gian đối với nhân loại bắt nguồn từ dòng sông nầy thật không thể tưởng tưởng hết. Thế nhưng, Đức Phật dạy rằng, số cát của sông Hằng vẫn không sánh được với dòng thời gian vô tận nhiều đại kiếp đã đi qua.

A black background with white text

Description automatically generated with low confidence

Rājagahe viharati veḷuvane. Atha kho aññataro brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kīvabahukā nu kho, bho gotama, kappā abbhatītā atikkantā’’ti? ‘‘Bahukā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā. Te na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā kappā iti vā, ettakāni kappasatāni iti vā, ettakāni kappasahassāni iti vā, ettakāni kappasatasahassāni iti vā’’’ti.

... Ngự ở Veḷuvana (Trúc Lâm), tại Rājagaha (Vương Xá).

Bấy giờ một bà la môn đi đến Đức Thế Tôn. Sau khi đến nói lên lời chào hỏi thân thiện với Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên và bạch rằng:

-- Tôn giả Gotama, có bao nhiêu đại kiếp đã chấm dứt và trôi qua?

-- Này Bà la môn, rất nhiều đại kiếp đã chấm dứt và trôi qua. Không dễ dàng để đếm con số đại kiếp dù là hằng trăm, hằng ngàn, hằng trăm ngàn.

‘‘Sakkā pana, bho gotama, upamaṃ kātu’’nti? ‘‘Sakkā, brāhmaṇā’’ti bhagavā avoca. ‘‘Seyyathāpi, brāhmaṇa, yato cāyaṃ gaṅgā nadī pabhavati yattha ca mahāsamuddaṃ appeti, yā etasmiṃ antare vālikā sā na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā vālikā iti vā, ettakāni vālikasatāni iti vā, ettakāni vālikasahassāni iti vā, ettakāni vālikasatasahassāni iti vā’ti. Tato bahutarā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā. Te na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā kappā iti vā, ettakāni kappasatāni iti vā, ettakāni kappasahassāni iti vā, ettakāni kappasatasahassāni iti vā’ti. Taṃ kissa hetu? Anamataggoyaṃ, brāhmaṇa, saṃsāro. Pubbā koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ sandhāvataṃ saṃsarataṃ. Evaṃ dīgharattaṃ kho, brāhmaṇa, dukkhaṃ paccanubhūtaṃ tibbaṃ paccanubhūtaṃ byasanaṃ paccanubhūtaṃ, kaṭasī vaḍḍhitā. Yāvañcidaṃ, brāhmaṇa, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitu’’nti.

-- Tôn giả Gotama, có thể cho một thí dụ chăng?

-- Này Bà la môn, có thể được. Này Bà la môn, ví như số cát của sông Hằng từ thượng nguồn ra tới cửa biển không dễ gì để đong đếm bằng những con số hằng trăm, hằng ngàn, hằng trăm ngàn hạt. Này Bà la môn,  rất nhiều đại kiếp đã chấm dứt và trôi qua. Không dễ dàng để đếm con số đại kiếp dù là hằng trăm, hằng ngàn, hằng trăm ngàn.

Tại sao? Vì cuộc trầm luân là vô thủy. Không thể nêu rõ khởi điểm đối với luân hồi sanh tử đối với chúng sanh bị vô minh bao phủ, ái dục buộc ràng.

Này Bà la môn, diệu vợi là luân hồi. Các ông đã chịu không biết bao nhiêu là khổ đau, hiểm nạn, rồi những mộ phần mỗi lúc một nhiều thêm. Đã quá đủ để nhàm chán, quá đủ để buông bỏ, quá đủ để giải thoát khỏi pháp hữu vi.

Evaṃ vutte, so brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama...pe... upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti.

Ðược nghe vậy, bà la môn ấy bạch Đức Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

Chú Thích

Sông Gaṅgā, ngày nay được gọi trong Anh ngữ Ganges, âm Hán Việt là Hằng Hà hay sông Hằng.

Từ bài kinh nầy tạo nên thành ngữ “Hằng Hà sa số” hay “số cát sông Hằng” chỉ cho con số vượt ngoài sự cân đo đong đếm hay “nhiều vô số kể”

Sông Ganga có chiều dài 2525 cây số chưa tính những chi lưu với một châu thổ bao phủ diện tích 2 triệu cây số vuông. Những con sông nổi tiếng như Brahmaputtra, Yamuna đều là chi lưu của sông Hằng.

Sông Hằng là một trong hai chiếc nôi của nền văn minh Ấn (dòng sông quan trọng khác là Indus River hay Ấn Hà).

Sông Hằng có một vị thế hết sức quan trọng trong lịch sử, văn minh, văn hoá, tôn giáo, kinh tế của Ấn Độ. Đối với Bà la môn giáo hay Ấn giáo thì đây là “dòng sông thiêng” với tịnh thủy có thể rữa sạch tội lỗi cho con người.

Đối với Phật giáo thì 16 quốc độ nơi Phật giáo khởi nguồn đều nằm trong châu thổ sông Hằng. Rất nhiều những bài kinh do Phật thuyết cũng như các câu chuyện tiền thân (Jataka) đề cập tới sông Hằng.

Sông Hằng khởi nguồn từ Hy Mã Lạp Sơn chảy ra vịnh Bengal mang theo rất nhiều phù sa nên vào mùa hè rất dễ nhìn thấy đáy sông đầy cát. Nói tới sông Hằng thì rất dễ liên tưởng tới cát của sông nầy.

Ông bà la môn trong bài kinh không được nhắc tới với đích danh. Nhưng thí dụ về cát của sông Hằng mà Đức Phật sử dụng rõ ràng giúp vị bà la môn nầy lãnh hội nhanh chóng vì đó là “dòng sông của tuổi thơ, dòng sông của tâm linh”.

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

8. Gaṅgāsuttaṃ

131. Rājagahe viharati veḷuvane. Atha kho aññataro brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kīvabahukā nu kho, bho gotama, kappā abbhatītā atikkantā’’ti? ‘‘Bahukā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā. Te na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā kappā iti vā, ettakāni kappasatāni iti vā, ettakāni kappasahassāni iti vā, ettakāni kappasatasahassāni iti vā’’’ti.

‘‘Sakkā pana, bho gotama, upamaṃ kātu’’nti? ‘‘Sakkā, brāhmaṇā’’ti bhagavā avoca. ‘‘Seyyathāpi, brāhmaṇa, yato cāyaṃ gaṅgā nadī pabhavati yattha ca mahāsamuddaṃ appeti, yā etasmiṃ antare vālikā sā na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā vālikā iti vā, ettakāni vālikasatāni iti vā, ettakāni vālikasahassāni iti vā, ettakāni vālikasatasahassāni iti vā’ti. Tato bahutarā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā. Te na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā kappā iti vā, ettakāni kappasatāni iti vā, ettakāni kappasahassāni iti vā, ettakāni kappasatasahassāni iti vā’ti. Taṃ kissa hetu? Anamataggoyaṃ, brāhmaṇa, saṃsāro. Pubbā koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ sandhāvataṃ saṃsarataṃ. Evaṃ dīgharattaṃ kho, brāhmaṇa, dukkhaṃ paccanubhūtaṃ tibbaṃ paccanubhūtaṃ byasanaṃ paccanubhūtaṃ, kaṭasī vaḍḍhitā. Yāvañcidaṃ, brāhmaṇa, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitu’’nti.

Evaṃ vutte, so brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama...pe... upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. Aṭṭhamaṃ.

8-9. Gaṅgāsuttādivaṇṇanā

131-132. Aṭṭhame yā etasmiṃ antare vālikāti yā etasmiṃ āyāmato pañcayojanasatike antare vālikā. Navame vattabbaṃ natthi. Aṭṭhamanavamāni.

<iframe width="1035" height="582" src="https://www.youtube.com/embed/L32ISrgXo38" title="Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - Kinh Đệ Tử (Sāvakasuttaṃ), ngày 26-08-2023" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" allowfullscreen></iframe>