- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 12.5.2025
TU HÀNH ĐÚNG NGHĨA
Kinh Lohicca (Lohiccasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Gia Chủ (SN.35.132)
Tất cả các tôn giáo lâu đời đều có hiện tượng chung là biến tướng, tha hoá. Những gì tốt đẹp ở thuở đầu thường mai một theo năm dài tháng rộng. Người ta thường tự phụ về nhãn hiệu và bề ngoài. Trở về với những giá trị uyên nguyên sẽ bừng tỏ điều rất quan trọng: “Những giá trị cao đẹp nào đã tạo nên sự khởi nguyên xa xưa của truyền thống tồn tại tới hôm nay”. Không học hiểu mà chỉ tự thị thường khi người ta sống cả đời với trạng thái “hữu danh vô thực”.
KINH VĂN
Ekaṃ samayaṃ āyasmā mahākaccāno avantisu viharati makkarakaṭaṭavane yena vihārapacchā. [117] Atha kho sambahulā brāhmaṃamāṃavakā lohiccabrāhmaṇassa antevāsī, kaṃhasusānaṭāya tiṭhāraṇāya, yenāyasmato mahākaccānassa vihāro tenupasaṃkamiṇsu...
Một thuở, Tôn giả Mahākaccāna trú tại vùng Avantī, trong khu rừng Makkarakaṭa. Khi ấy, có một nhóm thanh niên bà la môn, đệ tử của Bà la môn Lohicca, đi nhặt củi trong rừng, ngang qua tịnh thất của Tôn giả.
Te vihārapacchāyānipi parikkamanti paricaraṇṭi, tesaṃ upakkilesā honti: "Ime muṃḍakasamaṃā, dāsaparicārikā, kaṇhā bhagavato pādānujātaā, sakkarĮyamānā garukāriyamānā māneyyamānā pūjiyamānā"ti.
Họ đi lê la quanh tăng xá, đứa chê, đứa giỡn: "Bọn sa-môn đầu trọc này, sinh ra từ chân đức Phạm Thiên, đâu là giá trị cao sang? Sao lại được cung kính, tôn thờ như vậy?"
atha kho āyasmā mahākaccāno vihārā nikkhamitvā te māṇavake etadavoca — “mā māṇavakā saddamakattha; dhammaṃ vo bhāsissāmī”ti. evaṃ vutte, te māṇavakā tuṇhī ahesuṃ. atha kho āyasmā mahākaccāno te māṇavake gāthāhi ajjhabhāsi —
Tôn giả Mahākaccāna bước ra ngoài, nhẹ nhàng nói:
"Này các bạn trẻ, đừng làm ồn. Hãy để ta giảng Pháp cho các cháu."
Họ lặng yên. Rồi Ngài nói bằng bài kệ:
Sīluttamā pubbatarā ahesuṃ,
Te brāhmaṇā ye purāṇaṃ saranti.
Guttāni dvārāni surakkhitāni,
Ahesuṃ tesaṃ abhibhuyya kodhaṃ.
Dhamme ca jhāne ca ratā ahesuṃ,
Te brāhmaṇā ye purāṇaṃ saranti.
Bậc cổ đức ngày trước
Thiện xảo trong giới hạnh
Phạm chí biết luật xưa
Khéo nhiếp hộ các căn
Sống chế ngự phẫn nộ.
Họ sống vui lẽ đạo
Và hoan hỷ trong thiền
Bà la môn như vậy
Thật hiểu pháp chân truyền
Ime ca vokkamma japāmaseti,
Gottena mattā visamaṃ caranti.
Kodhābhibhūtā puthuattadaṇḍā,
Virajjamānā sataṇhātaṇhesu.
Còn giờ kẻ mê lầm
Chỉ tụng kinh làm đám
Tự thị với giai cấp
Bức hiếp người mạnh, yếu
Aguttadvārassa bhavanti moghā,
Supineva laddhaṃ purisassa vittaṃ.
Ai sáu căn buông thả
Tất cả đều rỗng không
Tựa như người nằm mộng
Thấy mình được giàu có
Anāsakā thaṇḍilasāyikā ca,
Pāto sinānañca tayo ca vedā.
Kharājinaṃ jaṭāpaṅko,
mantā sīlabbataṃ tapo,
Kuhanā vaṅkadaṇḍā ca,
udakācamanāni ca.
Vaṇṇā ete brāhmaṇānaṃ,
katā kiñcikkhabhāvanā.
Nhịn đói, ngủ trên đất,
Sáng tắm, trì Phệ Đà
Mặc áo da, tóc bện
Trì chú, thân trét bùn
Khổ hạnh, giới cấm thủ
Giả dối, sống bề ngoài,
Sái tịnh, dùng tích trượng,
Chỉ toàn là hình tướng
Bà la môn trục lợi
Cittañca susamāhitaṃ,
vippasannamanāvilaṃ.
Akhilaṃ sabbabhūtesu,
so maggo brahmapattiyā”ti.
Ai định tĩnh, nhất tâm
Thanh tịnh, sống vô tội
Mắt từ bi nhìn đời
Đường đến phạm thiên giới
atha kho te māṇavakā kupitā anattamanā yena lohicco brāhmaṇo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā lohiccaṃ brāhmaṇaṃ etadavocuṃ — “yagghe! bhavaṃ jāneyya, samaṇo mahākaccāno brāhmaṇānaṃ mante {mantaṃ (ka.)} ekaṃsena apavadati, paṭikkosatī”ti? evaṃ vutte, lohicco brāhmaṇo kupito ahosi anattamano. atha kho lohiccassa brāhmaṇassa etadahosi — “na kho pana metaṃ patirūpaṃ yohaṃ aññadatthu māṇavakānaṃyeva sutvā samaṇaṃ mahākaccānaṃ akkoseyyaṃ {akkoseyyaṃ virujjheyyaṃ (syā. kaṃ. ka.)} paribhāseyyaṃ. yaṃnūnāhaṃ upasaṅkamitvā puccheyyan”ti.
Nghe vậy, các thanh niên bực tức trở về và kể lại với thầy mình là Bà-la-môn Lohicca:
“Bạch thầy, sa-môn Mahākaccāna nhục mạ kinh điển Bà-la-môn của chúng ta!”
Sau khi nghe nhóm đệ tử thuật lại lời giảng của Tôn giả Mahākaccāna, Bà-la-môn Lohicca nổi giận. Nhưng rồi ông suy nghĩ:
“Không đúng đắn khi ta vội vàng mắng nhiếc sa môn Mahākaccāna chỉ vì lời kể lại từ những đứa trẻ. Tốt hơn hết, ta nên tự mình đến gặp và hỏi cho rõ.”
atha kho lohicco brāhmaṇo tehi māṇavakehi saddhiṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ sammodi. sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. ekamantaṃ nisinno kho lohicco brāhmaṇo āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavoca — “āgamaṃsu nu khvidha, bho kaccāna, amhākaṃ sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā”ti? “āgamaṃsu khvidha te, brāhmaṇa, sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā”ti. “ahu pana bhoto kaccānassa tehi māṇavakehi saddhiṃ kocideva kathāsallāpo”ti? “ahu kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ kocideva kathāsallāpo”ti. “yathā kathaṃ pana bhoto kaccānassa tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo”ti? “evaṃ kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo —
“sīluttamā pubbatarā ahesuṃ,
te brāhmaṇā ye purāṇaṃ saranti. ... pe ....
akhilaṃ sabbabhūtesu,
so maggo brahmapattiyā”ti.
“evaṃ kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo”ti.
Lohicca dẫn các đệ tử đến gặp Tôn giả, chào hỏi và ngồi sang một bên.
Ông hỏi:
“Tôn giả Kaccāna, các học trò của tôi có đến đây khi đi nhặt củi không?”
– “Có, họ có đến đây.”
“Ngài có nói chuyện gì với họ chăng?”
– “Có một cuộc trò chuyện.”
“Nội dung cuộc trò chuyện là gì?”
Tôn giả lặp lại toàn bộ các bài kệ đã giảng (đã dịch ở phần trước), rồi kết thúc:
“Đó là nội dung ta đã nói với họ.”
“‘aguttadvāro’ti {aguttadvāro aguttadvāroti (ka.)} bhavaṃ kaccāno āha. kittāvatā nu kho, bho kaccāna, aguttadvāro hotī”ti? “idha, brāhmaṇa, ekacco cakkhunā rūpaṃ disvā piyarūpe rūpe adhimuccati, appiyarūpe rūpe byāpajjati, anupaṭṭhitakāyassati {anupaṭṭhitāya satiyā (syā. kaṃ. pī. ka.) upari āsīvisavagge avassutasutte pana “anupaṭṭhitakāyassatī”tveva sabbattha dissati} ca viharati, parittacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. sotena saddaṃ sutvā... ghānena gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme adhimuccati, appiyarūpe ca dhamme byāpajjati, anupaṭṭhitakāyassati ca viharati, parittacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. evaṃ kho, brāhmaṇa, aguttadvāro hotī”ti. “acchariyaṃ, bho kaccāna; abbhutaṃ, bho kaccāna! yāvañcidaṃ bhotā kaccānena aguttadvārova samāno aguttadvāroti akkhāto.
[Lohicca hỏi:]
“Thưa ngài Kaccāna, ngài có nói đến người ‘không hộ trì các căn’. Thế nào là người như vậy?”
[Tôn giả giảng:]
(Tương tự với) tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhận biết cảnh pháp. Người ấy không có chánh niệm, tâm giới hạn, không nhận thức như nhiên với tâm giải thoát và tuệ giải thoát do vậy các pháp bất thiện không diệt tận, còn dư sót.
“Với tâm tham đắm, sân hận, thiếu chánh niệm và trí tuệ, người ấy chính là ‘không hộ trì các căn.’”
“‘guttadvāro’ti bhavaṃ kaccāno āha. kittāvatā nu kho, bho kaccāna, guttadvāro hotī”ti? “idha, brāhmaṇa, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā piyarūpe rūpe nādhimuccati, appiyarūpe rūpe na byāpajjati, upaṭṭhitakāyassati ca viharati, appamāṇacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. sotena saddaṃ sutvā... ghānena gandhaṃ ghāyitvā... jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme nādhimuccati, appiyarūpe dhamme na byāpajjati, upaṭṭhitakāyassati ca viharati, appamāṇacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti, yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. evaṃ kho, brāhmaṇa, guttadvāro hotī”ti.
[Lohicca lại hỏi:]
“Thế nào là người ‘hộ trì các căn’?”
[Tôn giả giảng:]
“Ở đây, khi người thấy sắc bằng mắt, không đắm say cái đẹp, không ghét bỏ cái xấu. Người ấy có chánh niệm, tâm không hạn cuộc, nhận thức như nhiên với tâm giải thoát và tuệ giải thoát do vậy các pháp bất thiện diệt tận không dư sót.
Tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân và ý… Người ấy có chánh niệm, tâm không hạn cuộc, nhận thức như nhiên với tâm giải thoát và tuệ giải thoát do vậy các pháp bất thiện diệt tận không dư sót.
“Với tâm không tham đắm, không sân hận, chánh niệm và trí tuệ, người ấy chính là ‘hộ trì các căn.’”
“acchariyaṃ, bho kaccāna; abbhutaṃ, bho kaccāna! yāvañcidaṃ bhotā kaccānena guttadvārova samāno guttadvāroti akkhāto. abhikkantaṃ, bho kaccāna; abhikkantaṃ, bho kaccāna! seyyathāpi, bho kaccāna, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya, cakkhumanto rūpāni dakkhantīti; evamevaṃ bhotā kaccānena anekapariyāyena dhammo pakāsito. esāhaṃ, bho kaccāna, taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca. upāsakaṃ maṃ bhavaṃ kaccāno dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ. yathā ca bhavaṃ kaccāno makkarakate upāsakakulāni upasaṅkamati; evameva lohiccakulaṃ upasaṅkamatu. tattha ye māṇavakā vā māṇavikā vā bhavantaṃ kaccānaṃ abhivādessanti paccuṭṭhissanti āsanaṃ vā udakaṃ vā dassanti, tesaṃ taṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā”ti. navamaṃ.
[Lohicca hoan hỷ thốt lên:]
“Thật tuyệt diệu, thưa Tôn giả Kaccāna! Thật tuyệt diệu, thưa Tôn giả Kaccāna! Ngài đã giải thích rõ ràng như dựng lại cái bị lật úp, mở ra điều bị che kín, chỉ đường cho người lạc lối, như thắp đèn sáng giữa bóng tối, để ai có mắt đều thấy rõ.” Từ nay, con xin nương tựa Phật, Pháp và Tăng. Xin Ngài xem con là cư sĩ tại gia, trọn đời nương tựa Tam Bảo.” Mong ngài đến dòng họ Lohicca như ngài thường đến các cư sĩ ở Makkarakaṭa. Nơi ấy, trai gái sẽ kính lễ, đứng dậy đón tiếp, dâng nước và chỗ ngồi – điều ấy sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho họ.”
CHÚ THÍCH
Lohicca là một Bà-la-môn cư ngụ tại Makkarakata, thuộc xứ Avanti.
Xem thêm bản dịch Sớ giải với nhiều chi tiết (…)
SỚ GIẢI
132. navame makkarakateti evaṃnāmake nagare araññakuṭikāyanti araññe katāya pāṭiyekkāya kuṭiyaṃ, na vihārapaccantakuṭiyaṃ. māṇavakāti yepi tattha mahallakā, te mahallakakālepi antevāsikatāya māṇavakātveva vuttā. tenupasaṅkamiṃsūti pāto sippaṃ uggaṇhitvā sāyaṃ “ācariyassa kaṭṭhāni āharissāmā”ti araññaṃ pavisitvā vicarantā yena sā kuṭikā, tenupasaṅkamiṃsu. parito parito kuṭikāyāti tassā kuṭikāya samantato samantato. seleyyakānīti aññamaññassa piṭṭhiṃ gahetvā laṅghitvā ito cito caṅkamanakīḷanāni.
muṇḍakātiādīsu muṇḍe muṇḍāti, samaṇe ca samaṇāti vattuṃ vaṭṭeyya, ime pana hīḷentā “muṇḍakā samaṇakā”ti āhaṃsu. ibbhāti gahapatikā. kaṇhāti kaṇhā, kāḷakāti attho. bandhupādāpaccāti ettha bandhūti brahmā adhippeto. tañhi brāhmaṇā pitāmahoti voharanti. pādānaṃ apaccā pādāpaccā, brahmuno piṭṭhipādato jātāti adhippāyo. tesaṃ kira ayaṃ laddhi “brāhmaṇā brahmuno mukhato nikkhantā, khattiyā urato, vessā nābhito, suddā jāṇuto, samaṇā piṭṭhipādato”ti. bharatakānanti kuṭimbikānaṃ. kuṭimbikā hi yasmā raṭṭhaṃ bharanti, tasmā bharatāti vuccanti. ime pana paribhavaṃ katvā vadamānā “bharatakānan”ti āhaṃsu.
vihārā nikkhamitvāti “rattiṭṭhakāparicchanne rajatapaṭṭasannibhasamavippakiṇṇavālike ramaṇīye pariveṇe kaṭṭhakalāpe bandhitvā khipamānā vālikaṃ āluḷetvā, hatthena hatthaṃ ādāya paṇṇakuṭiṃ pariyāyantā ‘ime imesaṃ bharatakānaṃ sakkatā, ime imesaṃ bharatakānaṃ sakkatā’ti punappunaṃ viravantā ativiya ime māṇavakā kīḷaṃ karonti, vihāre bhikkhūnaṃ atthibhāvampi na jānanti, dassessāmi nesaṃ bhikkhūnaṃ atthibhāvan”ti cintetvā paṇṇakuṭito nikkhami.
sīluttamā pubbatarā ahesunti guṇavantānaṃ guṇe kathite nigguṇānaṃ guṇābhāvo pākaṭova bhavissatīti porāṇakabrāhmaṇānaṃ guṇe kathento evamāha. tattha sīluttamāti sīlajeṭṭhakā. sīlañhi tesaṃ uttamaṃ, na jātigottaṃ. ye purāṇaṃ sarantīti ye porāṇakaṃ brāhmaṇadhammaṃ saranti. abhibhuyya kodhanti kodhaṃ abhibhavitvā tesaṃ dvārāni suguttāni surakkhitāni ahesuṃ. dhamme ca jhāne ca ratāti dasavidhe kusalakammapathadhamme aṭṭhasamāpattijhānesu ca ratā.
evaṃ porāṇānaṃ guṇaṃ kathetvā athetarahi brāhmaṇānaṃ mānaṃ nimmaddento ime ca vokkamma japāmasetiādimāha. tattha vokkammāti etehi guṇehi apakkamitvā. japāmaseti mayaṃ japāma sajjhāyāmāti ettakeneva brāhmaṇamhāti maññamānā brāhmaṇā mayanti iminā gottena mattā hutvā visamaṃ caranti, visamāni kāyakammādīni karontīti attho. puthuattadaṇḍāti puthu attā daṇḍā etehīti puthuattadaṇḍā, gahitanānāvidhadaṇḍāti attho. sataṇhātaṇhesūti sataṇhanittaṇhesu. aguttadvārassa bhavanti moghāti asaṃvutadvārassa sabbepi vatasamādānā moghā bhavantīti dīpeti. yathā kinti? supineva laddhaṃ purisassa vittanti yathā supine purisassa laddhaṃ maṇimuttādinānāvidhaṃ vittaṃ moghaṃ hoti, pabujjhitvā kiñci na passati, evaṃ moghā bhavantīti attho.
anāsakāti ekāhadvīhādivasena anāhārakā. thaṇḍilasāyikā cāti haritakusasanthate bhūmibhāge sayanaṃ, pāto sinānañca tayo ca vedāti pātova udakaṃ pavisitvā nhānañceva tayo ca vedā. kharājinaṃ jaṭā paṅkoti kharasamphassaṃ ajinacammañceva jaṭākalāpo ca paṅko ca, paṅko nāma dantamalaṃ. mantā sīlabbataṃ tapoti mantā ca ajasīlagosīlasaṅkhātaṃ sīlaṃ ajavatagovatasaṅkhātaṃ vatañca. ayaṃ idāni brāhmaṇānaṃ tapoti vadati. kuhanā vaṅkadaṇḍā cāti paṭicchannakūpo viya paṭicchannadosaṃ kohaññañceva vaṅkadaṇḍo, ca udumbarapalāsabeḷuvarukkhānaṃ aññatarato gahitaṃ vaṅkadaṇḍañcāti attho. udakācamanāni cāti udakena mukhaparimajjanāni. vaṇṇā ete brāhmaṇānanti ete brāhmaṇānaṃ parikkhārabhaṇḍakavaṇṇāti dasseti. kata kiñcikkhabhāvanāti katā kiñcikkhabhāvanā. ayameva vā pāṭho, āmisakiñcikkhassa vaḍḍhanatthāya katanti attho.
evaṃ etarahi brāhmaṇānaṃ mānaṃ nimmadditvā puna porāṇakabrāhmaṇānaṃ vaṇṇaṃ kathento cittañca susamāhitantiādimāha. tattha susamāhitanti tesaṃ brāhmaṇānaṃ cittaṃ upacārappanāsamādhīhi susamāhitaṃ ahosīti dasseti. akhilanti mudu athaddhaṃ. so maggo brahmapattiyāti so seṭṭhapattiyā maggo, tumhe pana kiṃ brāhmaṇā nāmāti dīpento evamāha.
āgamaṃsu nu khvidhāti āgamaṃsu nu kho idha. adhimuccatīti kilesavasena adhimutto giddho hoti. byāpajjatīti byāpādavasena pūticittaṃ hoti. parittacetasoti anupaṭṭhitasatitāya saṃkilesacittena parittacitto. cetovimuttinti phalasamādhiṃ. paññāvimuttinti phalapaññaṃ. appamāṇacetasoti upaṭṭhitasatitāya nikkilesacittena appamāṇacitto.
132. Kinh số 9 (Navame):
Makkarakate: – là tên một thi trấn.
Araññakuṭikāyaṃ: Trong một am tranh riêng biệt dựng giữa rừng, không phải một tịnh thất trong chùa.
Māṇavakā: Dù là người lớn tuổi nhưng vẫn được gọi là “māṇavakā” (thanh niên) vì họ là học trò (antevāsika).
Tenupasaṅkamiṃsu: Họ đã học nghề xong buổi sáng, chiều vào rừng hái củi để dâng thầy và đến gần am tranh.
Parito parito kuṭikāya: Đi vòng vòng, chạy quanh am.
Seleyyakāni: Những trò đùa nhảy qua lưng nhau, chạy hỗn loạn.
Về lời trịch thượng “muṇḍakā samaṇakā…”
Muṇḍakā: “đầu trọc” – cách gọi khinh miệt.
Samaṇakā: “sa môn nhỏ” – cũng mang ý coi thường.
Ibbhā: thế tục.
Kaṇhā: đen, tối màu – ám chỉ hạ tiện.
Bandhupādāpaccā: sinh ra từ chân của Brahmā. Theo quan niệm chấp thủ rằng:
Tôn giả Mahākaccāna xuất hiện.
Nikkhamitvā: Sau khi nghe ồn ào và thấy các thanh niên phá phách, Ngài nghĩ: “Ta sẽ cho họ biết vẫn có Tăng ở đây.”
Sīluttamā pubbatarā ahesuṃ...: Bắt đầu giảng bằng kệ tán dương Bà-la-môn chân chính thời xưa.
Sīluttamā: người có giới hạnh là tối thượng.
Ye purāṇaṃ saranti: những người còn nhớ chân pháp truyền thống từ xưa.
Dhamme ca jhāne ca ratā: yêu thích đối với chánh pháp và thiền định.
Chỉ trích sự suy đồi hiện tại.
Ime ca vokkamma: Bỏ pháp hạnh xưa, chỉ lo tụng niệm suông.
Gottena mattā: Tự mãn vì dòng họ.
Puthuattadaṇḍā: Cầm nhiều gậy khác nhau – ám chỉ bạo lực và ngụy trang hình thức.
Aguttadvārassa bhavanti moghā: Nếu không hộ trì các căn, mọi khổ hạnh đều vô ích.
Supineva laddhaṃ...: Giống như của cải có được trong mộng – tỉnh dậy là mất (giấc mộng kê vàng).
Phê phán hình thức đạo đức giả.
Anāsakā, thaṇḍilasāyikā: Nhịn ăn, nằm đất.
Pāto sinānañca: Tắm sáng.
Tayo ca vedā: Ba tập Vệ-đà.
Kharājinaṃ, jaṭā, paṅko: Da thú thô, tóc bện, thân bẩn.
Mantā, sīlabbataṃ, tapo: Thần chú, giới, hạnh khổ.
Kuhanā, vaṅkadaṇḍā, udakācamanāni: Giả dối, gậy cong, rửa miệng bằng nước.
Vaṇṇā ete brāhmaṇānaṃ: Những thứ này chỉ là hình thức bên ngoài.
Katā kiñcikkhabhāvanā: Được tạo ra để phô trương, để nuôi dưỡng cái ngã và danh lợi.
Tán thán phẩm hạnh chân chính.
Cittañca susamāhitaṃ...: Tâm được định tĩnh, trong sáng, không nhiễm ô.
Akhilaṃ sabbabhūtesu: Không hiềm hận với tất cả chúng sinh.
So maggo brahmapattiyā: Đó mới chính là con đường đưa đến cảnh giới Phạm thiên.
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu
132. IX. Lohicca (S,iv,116)
1) Một thời Tôn giả Mahà Kaccàna trú ở giữa dân chúng Avanti, tại Makkarakata, tại một chòi lá trong rừng.
2) Rồi một số đông đệ tử của Bà-la-môn Lohicca, là những thanh niên lượm củi, đi đến chòi lá trong rừng của Tôn giả Mahà Kaccàna; sau khi đến, đi qua đi lại, đi vòng quanh chòi lá, cao tiếng, lớn tiếng và làm đủ loại trò chơi nghịch ngợm: "Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, đê tiện, đen đủi, sanh từ nơi chân này, lại được các kẻ nô tì khuân vác cung kính, tôn trọng, cúng dường, lễ bái".
3) Rồi Tôn giả Mahà Kaccàna từ trong nhà bước ra và nói với các thanh niên ấy:
-- Này các Thanh niên, chớ có làm ồn. Ta sẽ thuyết pháp cho các Ông.
Khi nghe nói vậy, các thanh niên đều im lặng.
4) Rồi Tôn giả Mahà Kaccàna nói lên những bài kệ với các thanh niên ấy:
1) Những bậc cổ nhân xưa,
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Các căn được hộ trì,
Ðược khéo léo chế ngự,
Họ nhiếp phục đoạn tận
Mọi tức giận phẫn nộ.
2) Họ hân hoan trong pháp,
Họ hân hoan trong Thiền,
Họ là Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Còn kẻ trốn luật này,
Chỉ lắp bắp tụng đọc,
Say mê trong giai cấp,
Họ bước đi khập khểnh.
3) Bị phẫn nộ nhiếp phục,
Dùng nhiều loại gậy gộc,
Họ rơi vào nguy hại,
Giữa kẻ tham, bậc Thánh,
Rỗng không là giới cấm,
Khi căn không chế ngự,
Như người được tài sản,
Trong cơn mộng nằm mơ.
4) Không ăn, quyết nhịn đói,
Nằm ngủ trên đất trần,
Sáng dậy, tắm sạch tội,
Tụng đọc ba Vệ-đà,
Mặc da thú thô cứng,
Bện tóc, da dính bùn,
Tụng đọc các thần chú,
Giới cấm thủ, khổ hạnh.
5) Giả dối và lừa đảo,
Sử dụng các gậy gộc,
Dùng nước để tắm rửa,
Dùng nước để súc miệng,
Ðó là những sắc tướng,
Các hàng Bà-la-môn,
Họ làm và thực hiện,
Mong hưởng những lợi nhỏ.
6) Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
5) Rồi các thanh niên ấy, tức giận và không vui, đi đến Bà-la-môn Lohicca; sau khi đến, thưa với Bà-la-môn Lohicca:
-- Mong Tôn giả biết rằng, Sa-môn Mahà Kaccàna đang một mạch chỉ trích và mạ lị thần chú của các Bà-la-môn.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Lohicca tức giận và không vui.
6) Rồi Bà-la-môn Lohicca suy nghĩ: "Thật không thích đáng cho ta khi ta nghe một mình các thanh niên Bà-la-môn, rồi phỉ báng và công kích Sa-môn Mahà Kaccàna. Vậy, ta hãy đi đến và hỏi vị ấy".
7) Rồi Bà-la-môn Lohicca cùng với các thanh niên Bà-la-môn ấy đi đến Tôn giả Mahà Kaccàna; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
8) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Lohicca nói với Tôn giả Mahà Kaccàna:
-- Tôn giả Kaccàna, có phải có một số đông đệ tử của chúng tôi, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi đã đến đây?
-- Này Bà-la-môn, một số đông đệ tử của Ông, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi có đến tại đây.
-- Thưa Tôn giả Kaccàna, Tôn giả có nói chuyện với những thanh niên Bà-la-môn ấy không?
-- Này Bà-la-môn, tôi có nói chuyện với những thanh niên Bà-la-môn ấy.
-- Như thế nào là câu chuyện giữa Tôn giả Kaccàna với những thanh niên Bà-la-môn ấy?
-- Này Bà-la-môn, như thế này là câu chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy:
1) Những bậc cổ nhân xưa
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn
Ghi nhớ các cổ luật.
2-5) ...
6) Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
Như vậy, này Bà-la-môn, là cuộc nói chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy.
9) -- Tôn giả Kaccàna có nói đến hộ trì các căn. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Kaccàna, là hộ trì các căn?
10) -- Ở đây, này Bà-la-môn, có người sau khi mắt thấy sắc, có tâm hướng đến các sắc khả ái, có tâm ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt không có dư tàn.
11-14) ... sau khi tai nghe tiếng... sau khi mũi ngửi hương... sau khi lưỡi nếm vị... sau khi thân cảm xúc...
15) ... sau khi ý biết các pháp, tâm hướng đến các pháp khả ái, tâm ghét bỏ các pháp không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt không có dư tàn.
16) Như vậy, này Bà-la-môn, là các căn không có hộ trì.
17) -- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Kaccàna, thật là hy hữu, thưa Tôn giả Kaccàna, cách thức Tôn giả Kaccàna đã định nghĩa các căn không hộ trì. Các căn có hộ trì, các căn có hộ trì, Tôn giả Kaccàna đã nói như vậy; cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Kaccàna, là các căn có hộ trì?
18) -- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, tâm không hướng đến các sắc khả ái, tâm không ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
19-22) ... sau khi tai nghe tiếng... sau khi mũi ngửi hương... sau khi lưỡi nếm vị... sau khi thân cảm xúc...
23) ... sau khi ý nhận biết các pháp, tâm không hướng đến các pháp khả ái, tâm không ghét bỏ các pháp không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
24) Như vậy, này Bà-la-môn, là các căn được hộ trì.
25) -- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Kaccàna, thật là hy hữu, thưa Tôn giả Kaccàna, cách thức Tôn giả Kaccàna đã định nghĩa các căn được hộ trì. Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccàna! Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccàna! Thưa Tôn giả Kaccàna, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho những ai có mắt được thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Kaccàna dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay, thưa Tôn giả Kaccàna, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Kaccàna hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng. Và như Tôn giả Kaccàna đi đến viếng các gia đình cư sĩ, cũng vậy, cũng vậy, mong Tôn giả Kaccàna hãy đến viếng các gia đình Lohicca. Tại đấy, các thanh niên và thanh nữ sẽ đảnh lễ Tôn giả Kaccàna, sẽ soạn chỗ ngồi, hay cúng dường nước cho Tôn giả Kaccàna và như vậy, họ sẽ được hạnh phúc, an lạc trong một thời gian dài.