Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TỰ BIẾT DO THỰC CHỨNG - Kinh Có Phương Pháp Chăng? (Atthinukhopariyāyasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TỰ BIẾT DO THỰC CHỨNG - Kinh Có Phương Pháp Chăng? (Atthinukhopariyāyasuttaṃ)

Sunday, 01/06/2025, 03:53 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 27.5.2025

TỰ BIẾT DO THỰC CHỨNG

Kinh Có Phương Pháp Chăng? (Atthinukhopariyāyasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Mới Và Cũ (SN.35.153)

A person sitting in a lotus position under a tree with four faces

AI-generated content may be incorrect.

Trong sự hiểu biết đối với trình độ tu chứng bản thân không thể bằng trí tuệ do học hỏi hay do suy diễn mà phải do trí tuệ tu tập. Giác ngộ đúng nghĩa phải vượt ngoài ngôn từ và lý luận. Đó là sự trải nghiệm không ai nhận biết thay cho mình. Đức Phật khẳng định người tu tập có khả năng tự biết trình độ tu chứng – tất nhiên phải là thực chứng.

KINH VĂN

153. “atthi nu kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma bhikkhu aññatreva saddhāya, aññatra ruciyā, aññatra anussavā, aññatra ākāraparivitakkā, aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā aññaṃ byākareyya — ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī”ti {pajānātīti (syā. kaṃ. pī. ka.)} ? “bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā, bhagavaṃnettikā bhagavaṃpaṭisaraṇā. sādhu vata, bhante, bhagavantaṃyeva paṭibhātu etassa bhāsitassa attho. bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti. “tena hi, bhikkhave, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha; bhāsissāmī”ti. “evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. bhagavā etadavoca — “atthi, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma bhikkhu aññatreva saddhāya, aññatra ruciyā, aññatra anussavā, aññatra ākāraparivitakkā, aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā aññaṃ byākareyya — ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī”ti.

“katamo ca, bhikkhave, pariyāyo, yaṃ pariyāyaṃ āgamma bhikkhu aññatreva saddhāya ... pe ... aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā aññaṃ byākaroti — ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti? idha, bhikkhave, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā santaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, atthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti; asantaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, natthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti. yaṃ taṃ, bhikkhave, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā santaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, atthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti; asantaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, natthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti. api nume, bhikkhave, dhammā saddhāya vā veditabbā, ruciyā vā veditabbā, anussavena vā veditabbā, ākāraparivitakkena vā veditabbā, diṭṭhinijjhānakkhantiyā vā veditabbā”ti? “no hetaṃ, bhante”. “nanume, bhikkhave, dhammā paññāya disvā veditabbā”ti? “evaṃ, bhante”. “ayaṃ kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma bhikkhu aññatreva saddhāya, aññatra ruciyā, aññatra anussavā, aññatra ākāraparivitakkā, aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā aññaṃ byākaroti — ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī”ti ... pe ....

“puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu jivhāya rasaṃ sāyitvā santaṃ vā ajjhattaṃ ... pe ... rāgadosamohoti pajānāti; asantaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, natthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti. yaṃ taṃ, bhikkhave, jivhāya rasaṃ sāyitvā santaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, atthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti; asantaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, natthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti; api nume, bhikkhave, dhammā saddhāya vā veditabbā, ruciyā vā veditabbā, anussavena vā veditabbā, ākāraparivitakkena vā veditabbā, diṭṭhinijjhānakkhantiyā vā veditabbā”ti? “no hetaṃ, bhante”. “nanume, bhikkhave, dhammā paññāya disvā veditabbā”ti? “evaṃ, bhante”. “ayampi kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma bhikkhu aññatreva saddhāya, aññatra ruciyā, aññatra anussavā, aññatra ākāraparivitakkā, aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā aññaṃ byākaroti — ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī”ti {pajānātīti (syā. kaṃ. pī. ka.)} ... pe ....

“puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu manasā dhammaṃ viññāya santaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, atthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti; asantaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, natthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti. yaṃ taṃ, bhikkhave, bhikkhu manasā dhammaṃ viññāya santaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, atthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti; asantaṃ vā ajjhattaṃ rāgadosamohaṃ, natthi me ajjhattaṃ rāgadosamohoti pajānāti; api nume, bhikkhave, dhammā saddhāya vā veditabbā, ruciyā vā veditabbā, anussavena vā veditabbā, ākāraparivitakkena vā veditabbā, diṭṭhinijjhānakkhantiyā vā veditabbā”ti? “no hetaṃ, bhante”. “nanume, bhikkhave, dhammā paññāya disvā veditabbā”ti? “evaṃ, bhante”. “ayampi kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma bhikkhu aññatreva saddhāya, aññatra ruciyā, aññatra anussavā, aññatra ākāraparivitakkā, aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā aññaṃ byākaroti — ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī”ti. aṭṭhamaṃ.

“Này các Tỳ khưu, có một phương pháp trình bày nào chăng, nhờ đó một hành giả — không dựa vào niềm tin, không do sở thích cá nhân, không do y cứ theo truyền thống, không do suy diễn, không do lý luận, mà có thể tuyên bố trí tuệ tối hậu như sau: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa’?”

[Các Tỳ khưu thưa:]

“Bạch Thế Tôn, giáo pháp bắt nguồn từ Đức Thế Tôn, được dẫn dắt bởi Đức Thế Tôn và nương tựa nơi Đức Thế Tôn. Lành thay nếu chính Đức Thế Tôn giải thích rõ ý nghĩa của lời dạy này. Khi nghe từ Ngài, các Tỳ khưu sẽ ghi nhớ.”

“Vậy thì, này các Tỳ khưu, hãy lắng nghe và khéo tác ý. Ta sẽ giảng.”

– “Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỳ khưu đáp.

“Có phương pháp ấy, này các Tỳ khưu, nhờ đó một hành giả — không dựa vào niềm tin, không do sở thích cá nhân, không do y cứ theo truyền thống, không do suy diễn, không do lý luận, mà có thể tuyên bố trí tuệ tối hậu như sau: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”.

Vậy phương pháp ấy là gì?

Ở đây, này các Tỳ khưu, khi một hành giả thấy một sắc qua mắt, nếu tham ái, sân hận, si mê khởi lên trong nội tâm, vị ấy biết: ‘Nội tâm có tham, sân, si.’ Nếu không có tham, sân, si khởi lên, vị ấy biết: ‘Nội tâm không có tham, sân, si.’

Vậy thì, này các Tỳ khưu, những điều ấy có phải được hiểu dựa vào niềm tin, do sở thích cá nhân, do y cứ theo truyền thống, do suy diễn, do lý luận, mà có thể tuyên bố trí tuệ tối hậu như sau: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa’ chăng?”

– “Thưa không, Bạch Thế Tôn.”

– “Vậy thì những điều ấy phải được hiểu bằng gì?”

– “Bạch Thế Tôn, bằng trí tuệ thấy rõ (paññāya disvā).”

“Đó chính là phương pháp, này các Tỳ khưu, nhờ đó một vị có thể tuyên bố: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa’.

“Khi nghe âm thanh với tai…

Khi nếm vị bằng lưỡi…

Khi nhận thức cảnh pháp với ý...

… nếu có tham, sân, si khởi lên, vị ấy biết rõ: ‘nội tâm có tham, sân, si.’ Nếu không có, vị ấy biết rõ: ‘Nội tâm không có tham, sân, si.’ Vậy những điều ấy có phải được hiểu bằng lòng tin, sở thích, truyền thuyết, suy luận, hay chấp nhận quan điểm?”

– “Thưa không, Bạch Thế Tôn.”

– “Có phải chúng được thấy bằng tuệ giác?”

– “Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

“Đây chính là phương pháp mà nhờ đó, một Tỳ khưu — không dựa vào niềm tin, do sở thích cá nhân, do y cứ theo truyền thống, do suy diễn, do lý luận — có thể tuyên bố trí tuệ rốt ráo: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa’.

CHÚ THÍCH

Theo Sớ giải thì cách quán xét đề cập trong bài kinh này thuộc hồi quán (paccavekkhana) tức là nhìn lại tâm thái và tuệ giác sau khi trải qua công đoạn giác ngộ.

Sớ giải cũng chú thích là nội dung Phật ngôn trong bài kinh này áp dụng cho cả bậc thánh đang tu tiến (Sekha) và bậc thánh viên giác (asekha).

Những cụm từ Aññatreva saddhāya” – Không dựa vào niềm tin, “Ruciyā” – Không do sở thích cá nhân, Anussavā” – Không y cứ vào truyền thống, Ākāraparivitakkā” – Không do suy diễn, Diṭṭhinijjhānakkhanti” – Không do lý luận nói lên sự nhận thức không do thực chứng, nói cách khác, là tự thân trải nghiệm đều nói lên là cái nhìn không do thực tu. thực chứng.

“Aññaṃ byākareyya” – Tuyên bố trí tuệ tối hậu, chỉ cho sự nhận biết của bậc a la hán.

Xác lập sự giải thoát của bản thân không thể do văn huệ, tư huệ mà phải bằng tu huệ.

SỚ GIẢI

153. aṭṭhame ya pariyāya āgammāti ya kāraa āgamma. aññatreva saddhāyāti vinā saddhāya saddha apanetvā. ettha ca saddhāti na paccakkhā saddhā. yo pana parassa eva kira eva kirāti kathentassa sutvā uppanno saddahanākāro, ta sandhāyeta vutta. ruciādīsupi rucāpetvā khamāpetvā atthetanti gahaākāro ruci nāma, eva kira bhavissatīti anussavana anussavo, nisīditvā eka kāraa cintentassa kāraa upaṭṭhāti, eva upaṭṭhitassa atthetanti gahaa ākāraparivitakko nāma, kāraavitakkoti attho. kāraa cintentassa pāpikā laddhi uppajjati, ta atthesāti gahaākāro diṭṭhinijjhānakkhanti nāma. añña byākareyyāti imāni pañca hānāni muñcitvā arahatta byākareyya. imasmi sutte sekhāsekhāna paccavekkhaā kathitā.

Sớ giải kinh số 8 – Aṭṭhame

“Yaṃ pariyāyaṃ āgamma” có nghĩa là: “Dựa vào cách thức nào, phương pháp nào.”

“Aññatreva saddhāya” – Không dựa vào niềm tin nghĩa là không dựa vào niềm tin, không lấy niềm tin làm cơ sở. Nhưng ở đây, chữ “đức tin” (saddhā) không phải là đức tin có thực chứng (niềm tin xác chứng qua kinh nghiệm). Mà chỉ là niềm tin phát sinh khi nghe người khác nói: “Người này nói như thế, người kia bảo như vậy” – rồi mình tin theo mà chưa có trải nghiệm thực chứng. Chính niềm tin chưa được xác minh này là điều bị loại bỏ trong kinh.

“Ruciyā” – Không do sở thích cá nhân là không do ưa thích, không phải vì thấy dễ chịu, hợp ý rồi chấp nhận. Ở đây, “ruci” có nghĩa là một hành vi tiếp nhận xuất phát từ cảm tình hoặc thiên vị: “Tôi thích quan điểm này, nên tôi tin rằng nó đúng.”

“Anussavā” – Không y cứ vào truyền thống nghĩa là không phải do nghe truyền lại từ người khác, từ cha ông, tiền nhân... “Người ta đã nói từ lâu đời như vậy, nên tôi tin như vậy.”

“Ākāraparivitakkā” – Không do suy diễn tức là không phải do suy xét, phân tích hợp lý, rồi từ đó cho rằng điều ấy là đúng. Chẳng hạn như: một người ngồi thiền tư duy, một lý do nào đó hiện ra, rồi chấp nhận điều đó là chân lý — đây là suy luận hình thức, không phải thấy bằng trí tuệ chứng ngộ.

“Diṭṭhinijjhānakkhanti” – Không do lý luận nghĩa là không phải vì trải qua suy luận, cân nhắc, rồi chấp nhận một quan điểm nào đó — và cho đó là “chân lý”. Ví dụ: Suy nghĩ lâu ngày, thấy một giáo lý có vẻ đúng, rồi chấp nhận nó như chân lý — nhưng vẫn chưa có thực chứng, thì đó cũng không phải trí tuệ chân thật.

“Aññaṃ byākareyya” – Tuyên bố trí tuệ tối hậu: Nghĩa là vị Tỳ khưu, không do năm yếu tố ở trên (niềm tin, sở thích, truyền thống, suy diễn, lý luận), có thể tuyên bố sự chứng ngộ A-la-hán do thực chứng: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa’.

Trong bài kinh này, Đức Phật trình bày phương pháp quán sát thực chứng, với sự hồi quán tương ứng với cả hai: Bậc hữu học (sekha) – đang còn tu tập và Bậc vô học (asekha) – đã đoạn tận lậu hoặc, chứng quả A-la-hán.

Đây là một lời nhấn mạnh rằng trí tuệ chứng nghiệm (paññā) — chứ không phải bất kỳ hình thức tin tưởng hay suy luận nào — mới là nền tảng để chấm dứt khổ đau.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

152. VIII. Có Pháp Môn Nào? (S.iv,138)

1-2) ...

3) -- Có pháp môn nào, do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp (àkàra-paritakkà), ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận (ditthini shànakhanti), có thể xác chứng chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"?

4) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, Pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...

5) -- Có một pháp môn, này các Tỷ-kheo, do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận... trạng thái này nữa".

6) Pháp môn ấy là gì, do pháp môn ấy... "...không còn trở lui trạng thái này nữa"?

7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú biện luận được hiểu biết?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

-- Có phải các pháp này, do thấy chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?

-- Thưa phải, bạch Thế Tôn.

-- Ðây là pháp môn, này các Tỷ-kheo, do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận... không còn trở lui trạng thái này nữa".

8-11) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc...

12) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi ý biết pháp, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, khi ý biết pháp, hoặc biết rõ nội tâm có tham, sân, si: "Nội tâm ta có tham, sân, si", hoặc biết rõ nội tâm không có tham, sân, si: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, sự biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú biện luận được hiểu biết?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

-- Có phải các pháp này, do thấy chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?

-- Thưa phải, bạch Thế Tôn.

13) -- Ðây là pháp môn, này các Tỷ-kheo, do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về pháp môn, hay ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".