Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TRI NHÂN TRI DIỆN BẤT TRI TÂM - Kinh Tỳ Khưu Mới Tu (Navasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TRI NHÂN TRI DIỆN BẤT TRI TÂM - Kinh Tỳ Khưu Mới Tu (Navasuttaṃ)

, 13/01/2024, 18:50 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ –SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 12.1.2024

TRI NHÂN TRI DIỆN BẤT TRI TÂM

Kinh Tỳ Khưu Mới Tu (Navasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương X. Tương Ưng Tỷ Kheo (S.ii,277)

Trong cảnh giới của sự tu tập, luôn luôn có hai phương diện: hình thức bên ngoại và thực chất nội tại. Về hình thức thì có thể đo lường, nhưng nội tại quả là không dễ. Với một tỳ khưu mới tu, thì Tăng chúng tự nhiên muốn thấy thiện chí hoà mình, nhất là công việc chung. Nhưng cũng có những vị chuyên tâm tu tập, thay vì để bận rộn công việc – dù là chấp tác dưới mái am thiền. Dĩ nhiên, chỉ có Đức Điều Ngự là thấy biết tất cả. Dù sự nhận biết vượt ngoài khả năng của tất cả chúng ta, nhưng có bài học quan trọng: đừng tuyệt đối tin vào lý lẽ của sự phê phán. Dừng lại, ở chừng mực nào đó có thể là tốt hơn là cả quyết.

Kinh văn

Sāvatthiyaṃ viharati. Tena kho pana samayena aññataro navo bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyati, na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karoti cīvarakārasamaye. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, aññataro navo bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyati, na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karoti cīvarakārasamaye’’ti.

Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena taṃ bhikkhuṃ āmantehi ‘satthā taṃ, āvuso, āmantetī’’’ti. ‘‘Evaṃ bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso, āmantetī’’ti. ‘‘Evamāvuso’’ti kho so bhikkhu tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

... Ngự ở Sāvatthi.

Bấy giờ có một tỳ khưu mới tu, sau khi đi trì bình và thọ thực, đi vào am thất an tịnh và im lặng. Vị này không phụ giúp với các tỳ khưu khác trong thời gian may y.

 

Rồi một số tỳ khưu đi đến Đức Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên. Sau đó, trình bày sự việc. Đức Thế Tôn bảo một tỳ khưu “Này tỳ khưu, hãy đi đến tỳ khưu kia. Nhân danh ta bảo rằng Bậc Đạo Sư gọi vị ấy”. Vị tỳ khưu trả lời “Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn”.

Vị ấy đi đến vị tỳ khưu kia nói rằng “Bậc Đạo Sư cho gọi Hiền giả”. Vị tỳ khưu kia trả lời “Thưa vâng, Hiền giả” rồi đi đến Đức Thế Tôn đảnh lễ và ngồi xuống một bên.

Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ bhikkhuṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyasi, na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karosi cīvarakārasamaye’’ti? ‘‘Ahampi kho, bhante, sakaṃ kiccaṃ karomī’’ti.

Đức Thế Tôn hỏi vị tỳ khưu ấy:

-- Này Tỳ khưu, có thật chăng sau khi đi trì bình và thọ thực Thầy đi vào am thất an tịnh và im lặng. Không phụ giúp với các tỳ khưu khác trong thời gian may y ?

-- Bạch Đức Thế Tôn, con làm phận sự của con.

Atha kho bhagavā tassa bhikkhuno cetasā cetoparivitakkamaññāya bhikkhū āmantesi – ‘‘mā kho tumhe, bhikkhave, etassa bhikkhuno ujjhāyittha. Eso kho, bhikkhave, bhikkhu catunnaṃ jhānānaṃ ābhicetasikānaṃ diṭṭhadhammasukhavihārānaṃ nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī, yassa catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’ti.

Rồi Đức Thế Tôn với tâm của mình biết tâm vị tỳ khưu ấy, đã nói với chư tỳ khưu:

-- Này chư Tỳ khưu, chớ có chỉ trích vị này, vị này có thể tuỳ ý chứng nhập bốn tầng thiền, thuộc vô thượng tâm với hiện tại lạc trú. Vị này còn giác ngộ, chứng đạt, liễu tri cứu cánh phạm hạnh ngay trong hiện tại, mà chính do mục đích này, các bậc thiện gia nam tử xuất gia từ bỏ thế tục, sống không gia đình.

Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā – ‘‘Nayidaṃ sithilamārabbha, nayidaṃ appena thāmasā; Nibbānaṃ adhigantabbaṃ, sabbadukkhappamocanaṃ. ‘‘Ayañca daharo bhikkhu, ayamuttamapuriso; Dhāreti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti. catutthaṃ;

Đức Thế Tôn thuyết như vậy. Đấng Thiện Thệ, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Chẳng phải do buông thả

Chẳng phải thiếu nghị lực

Có thể chứng niết bàn

Vượt thoát mọi khổ đau

Tỳ khưu trẻ tuổi này

Thật sự là thượng nhân

Mang tấm thân cuối cùng

Thắng Ma cùng ma quân

Chú Thích

Theo lời Phật dạy, thì vị tỳ khưu mới tu – không nêu danh tánh – trong bài kinh này, là bậc a la hán câu phần giải thoát. Nói cách khác là bậc đã đạt cảnh giới tối cao của chỉ và quán.

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

4. Navasuttaṃ

238. Sāvatthiyaṃ viharati. Tena kho pana samayena aññataro navo bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyati, na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karoti cīvarakārasamaye. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, aññataro navo bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyati, na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karoti cīvarakārasamaye’’ti.

Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena taṃ bhikkhuṃ āmantehi ‘satthā taṃ, āvuso, āmantetī’’’ti. ‘‘Evaṃ bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso, āmantetī’’ti. ‘‘Evamāvuso’’ti kho so bhikkhu tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ bhikkhuṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyasi, na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karosi cīvarakārasamaye’’ti? ‘‘Ahampi kho, bhante, sakaṃ kiccaṃ karomī’’ti.

Atha kho bhagavā tassa bhikkhuno cetasā cetoparivitakkamaññāya bhikkhū āmantesi – ‘‘mā kho tumhe, bhikkhave, etassa bhikkhuno ujjhāyittha. Eso kho, bhikkhave, bhikkhu catunnaṃ jhānānaṃ ābhicetasikānaṃ diṭṭhadhammasukhavihārānaṃ nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī, yassa catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’ti.

Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –

‘‘Nayidaṃ sithilamārabbha, nayidaṃ appena thāmasā; Nibbānaṃ adhigantabbaṃ, sabbadukkhappamocanaṃ.

‘‘Ayañca daharo bhikkhu, ayamuttamapuriso; Dhāreti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti. catutthaṃ

4. Navasuttavaṇṇanā

238. Catutthe appossukkoti nirussukko. Saṅkasāyatīti viharati. Veyyāvaccanti cīvare kattabbakiccaṃ. Ābhicetasikānanti abhicittaṃ uttamacittaṃ nissitānaṃ. Nikāmalābhīti icchiticchitakkhaṇe samāpajjanasamatthatāya nikāmalābhī. Akicchalābhīti jhānapāripanthike sukhena vikkhambhetvā samāpajjanasamatthatāya adukkhalābhī. Akasiralābhīti yathāparicchedena vuṭṭhānasamatthatāya vipulalābhī, paguṇajjhānoti attho. Sithilamārabbhāti sithilavīriyaṃ pavattetvā. Catutthaṃ.