Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TRẦN CẢNH ĐỐI VỚI PHÀM TÂM VÀ THÁNH TRÍ - Kinh Yêu Thích Sắc I & II (Paṭhamarūpārāmasuttaṃ)&(Dutiyarūpārāmasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TRẦN CẢNH ĐỐI VỚI PHÀM TÂM VÀ THÁNH TRÍ - Kinh Yêu Thích Sắc I & II (Paṭhamarūpārāmasuttaṃ)&(Dutiyarūpārāmasuttaṃ)

Friday, 16/05/2025, 21:08 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 16.5.2025

TRẦN CẢNH ĐỐI VỚI PHÀM TÂM VÀ THÁNH TRÍ

Kinh Yêu Thích Sắc I & II (Paṭhamarūpārāmasuttaṃ)&(Dutiyarūpārāmasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Devadaha (SN.35.136&137)

Nhận thức sự thật có khác biệt giữa phàm tâm và thánh trí. Phàm tâm nhận thức từ bản năng đam mê vị ngọt. Thánh trí hiểu rõ vị ngọt, hiểm hoạ và sự vượt thoát. Từ đó tạo nên sự tương phản giữa ngược dòng và xuôi dòng. Chân lý - kể cả niết bàn – không phải xa vời mà nếu trọng điểm là không có chánh trí thì không thể thấy biết được.

KINH VĂN

136. “rūpārāmā, bhikkhave, devamanussā rūparatā rūpasammuditā. rūpavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti. saddārāmā, bhikkhave, devamanussā saddaratā saddasammuditā. saddavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti. gandhārāmā... rasārāmā... phoṭṭhabbārāmā... dhammārāmā, bhikkhave, devamanussā dhammaratā dhammasammuditā. dhammavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti. tathāgato ca kho, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho rūpānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavaṃ ca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na rūpārāmo na rūparato na rūpasammudito. rūpavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharati. saddānaṃ... gandhānaṃ... rasānaṃ... phoṭṭhabbānaṃ... dhammānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na dhammārāmo, na dhammarato, na dhammasammudito. dhammavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharati”. idamavoca bhagavā. idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā —

“rūpā saddā rasā gandhā, phassā dhammā ca kevalā.

iṭṭhā kantā manāpā ca, yāvatatthīti vuccati.

“sadevakassa lokassa, ete vo sukhasammatā.

yattha cete nirujjhanti, taṃ tesaṃ dukkhasammataṃ.

“sukhaṃ {sukhanti (sī.)} diṭṭhamariyebhi, sakkāyassa nirodhanaṃ.

 paccanīkamidaṃ hoti, sabbalokena passataṃ.

“yaṃ pare sukhato āhu, tadariyā āhu dukkhato.

yaṃ pare dukkhato āhu, tadariyā sukhato vidū.

 “passa dhammaṃ durājānaṃ, sammūḷhettha aviddasu.

nivutānaṃ tamo hoti, andhakāro apassataṃ.

“satañca vivaṭaṃ hoti, āloko passatāmi.

santike na vijānanti, maggā {magā (sī.)} dhammassa akovidā.“bhavarāgaparetebhi, bhavarāgānusārībhi {bhavasotānusāribhi (syā. kaṃ. pī.), bhavasotānusārihi (sī.)} .

māradheyyānupannehi, nāyaṃ dhammo susambudho.

“ko nu aññatra mariyebhi, padaṃ sambuddhumarahati.

yaṃ padaṃ sammadaññāya, parinibbanti anāsavā”ti. tatiyaṃ

"Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người đắm nhiễm vào sắc, yêu thích sắc, hoan hỷ với sắc. Nhưng khi sắc bị biến đổi, đoạn diệt, hoại diệt, thì chư thiên và loài người sống trong đau khổ.

Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người đắm nhiễm vào âm thanh… mùi hương… vị… xúc chạm… pháp trần (đối tượng của tâm), yêu thích và hoan hỷ với chúng. Nhưng khi các pháp ấy biến đổi, đoạn diệt, hoại diệt, thì chư thiên và loài người sống trong đau khổ.

Còn này các Tỳ-khưu, bậc Như Lai, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, sau khi thấy rõ như thật về sự khởi lên và đoạn diệt, sự hấp dẫn, nguy hiểm và sự thoát ly của sắc, không còn đắm nhiễm sắc, không còn yêu thích sắc, không còn hoan hỷ với sắc.

Khi sắc biến đổi, đoạn diệt, hoại diệt – bậc Như Lai sống an lạc.

Cũng vậy với âm thanh… mùi hương… vị… xúc chạm… pháp trần: bậc Như Lai thấy rõ như thật sự khởi lên và đoạn diệt, sự hấp dẫn, nguy hiểm và sự thoát ly của chúng; nên không còn đắm nhiễm, yêu thích hay hoan hỷ với chúng. Và khi chúng biến đổi, đoạn diệt – bậc Như Lai sống an lạc.

Đức Thế Tôn dạy như vậy. Sau khi nói xong, bậc Thiện Thệ lại nói tiếp với kệ ngôn:

“Sắc, thanh, hương, vị, xúc
và cảnh pháp khả ái
Đối với thế gian này
Là thứ đáng mong cầu.

 

Cuộc đời có thần tiên
Được xem là hạnh phúc.
Nhưng chỗ nào hoại diệt,
Họ nghĩ ấy là khổ.

Niết bàn – đoạn thân kiến
Bậc Thánh thấy là an lạc.
Thế gian lại cho là nghịch lý,
Vì họ thấy mọi thứ ngược lại.

Cái người đời thấy lạc,
Bậc Thánh biết là khổ.
Cái mà người nghĩ khổ,
Bậc Thánh biết là lạc.

Với pháp nan tư nghì,
Kẻ vô trí mê muội.
Bị che mờ, tối tăm,
Mù mịt, không thấy đường

Đối với bậc hiền trí
Hiển lộ với ánh sáng
Còn đối với ngu nhân
Chẳng hiểu điều trước mắt

Pháp không dễ lãnh hội
Bởi người có dục hữu
Cuốn theo dòng sanh hữu
Ngụp lặn trong Ma giới

Ai, ngoài các bậc Thánh,
Có thể ngộ pháp này?
Ai liễu tri điều ấy,
Là “vô lậu viên giác”.

Kinh Yêu Thích Sắc II (Dutiyarūpārāmasuttaṃ) giống như kinh trên ngoại trừ không có phần kệ ngôn

CHÚ THÍCH

Theo Ngài Bodhi thì có một số điểm cần lưu ý ở đây:

Ấn bản của Hội Pāli Text Society đã đặt tên sai cho bài kinh này là Agayha và gộp nó luôn với bài kinh kế tiếp (bắt đầu tại IV 128,8). Vì vậy, từ sutta 35:137 trở đi, số thứ tự sẽ khác một số.

Ấn bản lần Trùng Tuyên Tam Tạng Thứ VI đặt tên cho sutta 35:136 là Paṭhamarūpārāma (Kinh thứ nhất về sự đắm nhiễm sắc) và sutta 35:137 là Dutiyarūpārāma (Kinh thứ hai về sự đắm nhiễm sắc). Trong khi đó, ở ấn bản, chúng được gọi là Sagayha và Gayha tương ứng, điểm khác biệt giữa hai bài kinh là bài trước có phần kệ tụng, còn bài sau thì không.

Phần kệ tụng tương đương với Sutta Nipāta câu 759–765.

Câu kệ 5a nên đọc là: Passa dhammaṃ durājānaṃ (Hãy xem pháp khó hiểu này).

Câu 6cd: santike na vijānanti, maggā dhammass’ akovidā (ngay gần bên mà không biết, vì không khéo trong pháp đạo).

Câu 8b: buddhum (đến chỗ giác ngộ).

Ở câu 3b, Be và Ee đều dùng “sakkāyassa nirodhanaṃ” (sự đoạn diệt của thân kiến), trong khi Se dùng “sakkāyass’ uparodhanaṃ” (sự chế ngự của thân kiến); tuy nhiên, ý nghĩa tương đương nhau.

Câu 3d theo Be và Se là passataṃ (những người thấy), dù Ee dùng dassanaṃ (cái thấy) được một số bản chép tay (mss) ủng hộ và chú giải có thể được hiểu là nghiêng về cả hai cách đọc (xem chú thích tiếp theo).

Quan điểm này của các bậc hiền trí (idaṃ passantānaṃ paṇḍitānaṃ dassanaṃ – cái thấy của người trí thấy được sự thật) là đi ngược lại (paccanīka) toàn thể thế gian.

Vì thế gian xem năm uẩn là thường, lạc, ngã, mỹ; trong khi bậc trí thấy chúng là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh.

Ai khác ngoài các bậc Thánh mới có thể biết được cảnh giới Niết-bàn (nibbānappada)?

Sau khi biết đúng sự thật ấy bằng trí tuệ A-la-hán, họ lập tức trở thành người không còn lậu hoặc và hoàn toàn diệt tận nhờ vào sự diệt tận của các lậu hoặc (kilesaparinibbānena parinibbanti).

Hoặc, sau khi đã trở thành người không còn lậu hoặc bằng sự thấy biết chân chánh, thì cuối cùng họ hoàn toàn diệt tận thông qua sự tan hoại của năm uẩn (khandhaparinibbānena parinibbanti).

SỚ GIẢI

136. tatiye rūpasammuditāti rūpe sammuditā pamoditā. dukkhāti dukkhitā. sukhoti nibbānasukhena sukhito. kevalāti sakalā. yāvatatthīti vuccatīti yattakā atthīti vuccati. ete voti ettha vo-kāro nipātamattaṃ. paccanīkamidaṃ hoti, sabbalokena passatanti yaṃ idaṃ passantānaṃ paṇḍitānaṃ dassanaṃ, taṃ sabbalokena paccanīkaṃ hoti viruddhaṃ. loko hi pañcakkhandhe niccā sukhā attā subhāti maññati, paṇḍitā aniccā dukkhā anattā asubhāti. sukhato āhūti sukhanti kathenti. sukhato vidūti sukhanti jānanti. sabbametaṃ nibbānameva sandhāya vuttaṃ.

sammūḷhetthāti ettha nibbāne sammūḷhā. aviddasūti bālā. sabbepi hi channavutipāsaṇḍino “nibbānaṃ pāpuṇissāmā”ti saññino honti, te pana “nibbānaṃ nāma idan”tipi na jānanti. nivutānanti kilesanīvaraṇena nivutānaṃ pariyonaddhānaṃ. andhakāro apassatanti apassantānaṃ andhakāro hoti. kiṃ taṃ evaṃ hoti? nibbānaṃ vā nibbānadassanaṃ vā apassantānañhi bālānaṃ nibbānampi nibbānadassanampi kāḷameghāvacchāditaṃ viya candamaṇḍalaṃ kaṭāhena paṭikujjitapatto viya ca niccakālaṃ tamo ceva andhakāro ca sampajjati.

satañca vivaṭaṃ hoti, āloko passatāmivāti satañca sappurisānaṃ paññādassanena passantānaṃ nibbānaṃ āloko viya vivaṭaṃ hoti. santike na vijānanti, magā dhammassa akovidāti yaṃ attano sarīre kese vā lomādīsu vā aññatarakoṭṭhāsaṃ paricchinditvā anantarameva adhigantabbato attano vā khandhānaṃ nirodhamaggato santike nibbānaṃ. taṃ evaṃ santike samānampi maggabhūtā janā maggāmaggadhammassa catusaccadhammassa vā akovidā na jānanti.

♦māradheyyānupannehīti tebhūmakavaṭṭaṃ mārassa nivāsaṭṭhānaṃ anupannehi. ko nu aññatra ariyebhīti ṭhapetvā ariye ko nu añño nibbānapadaṃ jānituṃ arahati. sammadaññāya parinibbantīti arahattapaññāya sammā jānitvā anantarameva anāsavā hutvā kilesaparinibbānena parinibbanti. atha vā sammadaññāya anāsavā hutvā ante khandhaparinibbānena parinibbāyanti.

 1. Giải thích từ ngữ trong bài kệ

  • Rūpasammuditā: có nghĩa là "hoan hỷ với sắc". Tức là vui mừng, hân hoan khi tiếp xúc với sắc pháp.
  • Dukkhā: có nghĩa là "khổ não", "buồn khổ".
  • Sukho: có nghĩa là "người được an lạc", ý nói đến Niết-bàn lạc (nibbānasukha) – niềm hạnh phúc siêu việt không còn lậu hoặc.
  • Kevalā: có nghĩa là "toàn thể", "trọn vẹn", "hoàn toàn".
  • Yāvatatthīti vuccati: nghĩa là “chừng nào còn tồn tại thì được gọi là ‘có’ (atthi)”.
  • Ete vo: từ "vo" chỉ là tiểu từ (nipāta), không mang nghĩa độc lập – chỉ để nhấn mạnh.

2. Quan điểm của người trí trái ngược với thế gian

“Paccanīkam idaṃ hoti, sabbalokena passatanti”

“Cái thấy này trái ngược với toàn thể thế gian.”

  • Ý nghĩa: “Cái thấy” (dassanaṃ) ở đây là cái thấy của người trí – những bậc đang thấy như thật (passantānaṃ paṇḍitānaṃ dassanaṃ). Quan điểm này trái ngược hoàn toàn với quan niệm thế gian.
  • Thế gian thấy sao? Thế gian chấp năm uẩn là:
    • Nitya (nicca): thường hằng
    • Sukha: là lạc
    • Attā: là ngã
    • Subha: là tịnh

→ Còn bậc trí thấy chúng là:

    • Anicca: vô thường
    • Dukkha: khổ
    • Anattā: vô ngã
    • Asubha: bất tịnh

3. Bậc trí thấy hạnh phúc nơi Niết-bàn

  • Sukhato āhūti: nghĩa là “gọi là hạnh phúc”.
  • Sukhato vidūti: nghĩa là “bậc trí biết là hạnh phúc”.

Tất cả các cách dùng từ này đều chỉ về Niết-bàn – nơi chấm dứt khổ đau, không còn bị chi phối bởi các lậu hoặc và tái sinh.

4. Vì sao phàm phu không hiểu Niết-bàn?

  • Sammūḷh'ettha: nghĩa là “bị lạc lối, mê mờ tại đây” – tức là mê mờ ngay chính trong vấn đề Niết-bàn.
  • Aviddasu: là những người ngu si, không có trí tuệ.

Mặc dù tất cả 96 loại ngoại đạo (channavutipāsaṇḍino) đều nói rằng: “Chúng tôi sẽ đạt đến Niết-bàn”,
nhưng họ không biết Niết-bàn là gì, thậm chí không biết mô tả nó là gì.

  • Nivutānanti: những người bị che phủ bởi các triền cái (nīvaraṇa), bị bao trùm bởi vô minh.
  • Andhakāro apassataṃ: với người không thấy (apassantaṃ), thì chỉ toàn là bóng tối và vô minh.

Đối với người ngu si, Niết-bàn hay cái thấy về Niết-bàn giống như mặt trăng bị mây đen che khuất, hoặc như cái mâm úp kín lên ngọn đèn sáng – lúc nào cũng là bóng tối, mịt mờ, không có ánh sáng.

5. Với bậc trí, Niết-bàn là ánh sáng rực rỡ

Satañca vivaṭaṃ hoti, āloko passatāmiva
→ Với bậc thiện trí (sataṃ, sappurisānaṃ), Niết-bàn giống như ánh sáng được mở toang ra trước mắt người có trí tuệ.

  • Passantānaṃ: những người có tuệ giác.
  • Āloko: ánh sáng – ẩn dụ cho sự thấy rõ Niết-bàn.

6. Niết-bàn rất gần, nhưng vẫn không được thấy

Santike na vijānanti
“Ngay gần bên mà không biết.”

  • Magā dhammassa akovidā: vì không thông hiểu pháp – không rành pháp đạo, không hiểu về con đường và phi đạo, hay Tứ Thánh đế.

Dù Niết-bàn ở ngay nơi thân năm uẩn này, có thể đạt được ngay tại chỗ, nhưng người phàm không hiểu – do thiếu tuệ, thiếu hướng đạo.

7. Ai có thể đạt Niết-bàn?

Māradheyyānupannehīti
→ Những ai chưa thoát khỏi vòng kiểm soát của Ma vương (Māra), tức là vẫn còn luyến ái trong ba cõi (tebhūmakavaṭṭa), thì không thể hiểu pháp này.

Ko nu aññatra ariyebhi
→ Ngoài các bậc Thánh ra, ai có thể hiểu Niết-bàn?

8. Chứng ngộ và sự diệt tận

Sammadaññāya parinibbanti
→ Sau khi chứng biết đúng như thật bằng trí A-la-hán, thì:

  • Ngay lập tức trở thành bậc vô lậu (anāsava) và chứng Niết-bàn qua sự diệt tận các lậu hoặc (kilesaparinibbāna),

Hoặc:

  • Sau khi chứng vô lậu, thì đến lúc thân hoại mạng chung, chứng Niết-bàn qua sự diệt tận của các uẩn (khandhaparinibbāna).

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

136. III. Không Thâu Nhiếp (2) (S.iv 126)

1) ...

2) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời thích thú sắc, bị sắc kích thích. Khi sắc biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống đau khổ... thích thú tiếng... thích thú hương... thích thú vị... thích thú xúc... Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời thích thú pháp, bị pháp kích thích. Khi pháp biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống đau khổ.

3) Này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và xuất ly của sắc, không có thích thú sắc, không có ưa thích sắc, không bị sắc kích thích. Khi sắc biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, Như Lai sống an lạc... không thích thú tiếng... không thích thú hương... không thích thú vị... không thích thú xúc...

Sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của pháp, Như Lai không thích thú pháp, không ưa thích pháp, không bị pháp kích thích. Khi pháp biến hoại, ly tham, đoạn diệt, Như Lai sống an lạc.

4) Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

1) Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Và toàn thể các pháp,
Khả lạc, hỷ, khả ý,
Như vậy, chúng được gọi.

2) Chư Thiên và Người đời,
Xem chúng là khả lạc,
Chỗ nào chúng đoạn diệt,
Thiên, Nhân thấy đau khổ.

3) Bậc Thánh thấy an lạc,
Khi thân kiến đoạn diệt,
Bậc Thánh xem trái ngược,
Mọi quan điểm của đời.

4) Ðiều người gọi là lạc,
Bậc Thánh gọi là khổ.
Ðiều người gọi là khổ,
Thánh nhân biết là lạc.

5) Thấy pháp khó nhận biết,
Kẻ vô trí mê loạn,
Tối tăm đối vô minh,
Mù lòa đối không thấy.

6) Thiện nhân mắt rộng mở,
Thấy rõ ràng ánh sáng,
Sống gần, biết rõ ràng,
Thuần thục trong pháp lớn.

7) Bị tham sanh chinh phục,
Bị dòng hữu cuốn trôi,
Bị Ác ma chi phối,
Không giác ngộ pháp này.

8) Ngoài Thánh không có ai,
Giác ngộ con đường này,
Con đường đạt Niết-bàn,
Chánh trí thoát lậu hoặc.