Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TỈNH MÊ CÁCH NHAU GANG TẤC - Kinh Chấp Thủ (Upādiyamānasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TỈNH MÊ CÁCH NHAU GANG TẤC - Kinh Chấp Thủ (Upādiyamānasuttaṃ)

Wednesday, 29/05/2024, 17:29 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 29.5.2024

TỈNH MÊ CÁCH NHAU GANG TẤC

Kinh Chấp Thủ (Upādiyamānasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm A-La-Hán (S,iii,63)

Tục ngữ có những câu “đi với Phật mặc áo cà sa, đi với Ma mặc áo giấy”, hay “mê là Ma, tỉnh là Phật”, trong ý nghĩa tinh xác nhất, thì là cái nhìn đối với năm uẩn: chấp thủ là bị Ma trói buộc; không chấp thủ là ngộ đạo giải thoát. Ở đây, không phải là triết lý mà là sự thực hành thiền quán của người tu Phật. Không nhìn năm uẩn “đây là của ta, đây là ta, đây là tự ngã của ta” thì vượt khỏi cột trói của Ác Ma. Muốn được vậy, cần sự tuỳ quán về bản chất vô thường, khổ não, vô ngã với định, niệm miên mật. Chấp thủ hay không chấp thủ chỉ là ý niệm nhưng dẫn tới hai cảnh giới hoàn toàn khác nhau.

Kinh văn

Evaṃ me sutaṃ—ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Tôi được nghe như vầy,

Một thuở Đức Thế Tôn ngự ở Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), ngôi già lam của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) dâng cúng.

Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: “sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu yamahaṃ bhagavato dhammaṃ sutvā eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto vihareyyan”ti.

Bấy giờ, có một vị tỳ khưu đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Vì tỳ khưu ấy bạch rằng:

—Bạch Đức Thế Tôn, tốt lành thay Đức Thế Tôn thuyết pháp cô đọng súc tích cho con! Sau khi nghe thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng.

“Upādiyamāno kho, bhikkhu, baddho mārassa; anupādiyamāno mutto pāpimato”ti.

“Aññātaṃ bhagavā, aññātaṃ sugatā”ti.

—Này Tỳ khưu, người chấp thủ bị trói buộc bởi Ác ma; người không chấp thủ giải thoát khỏi Ác ma.

—Bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

“Yathā kathaṃ pana tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsī”ti?

“Rūpaṃ kho, bhante, upādiyamāno baddho mārassa; anupādiyamāno mutto pāpimato. Vedanaṃ upādiyamāno baddho mārassa; anupādiyamāno mutto pāpimato. Saññaṃ … saṅkhāre … viññāṇaṃ upādiyamāno baddho mārassa; anupādiyamāno mutto pāpimato.

Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.

—Này Tỳ khưu, Thầy hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi điều Ta nói một cách ngắn gọn?

—Bạch Thế Tôn, ai chấp thủ sắc bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ sắc giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ thọ bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ thọ giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ tưởng bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ tưởng giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ hành bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ hành giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ thức bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ thức giải thoát khỏi Ác ma.

Bạch Thế Tôn, với lời nói cô đọng của Đức Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

“Sādhu sādhu, bhikkhu. Sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsi.

Rūpaṃ kho, bhikkhu, upādiyamāno baddho mārassa; anupādiyamāno mutto pāpimato. Vedanaṃ … saññaṃ … saṅkhāre … viññāṇaṃ upādiyamāno baddho mārassa; anupādiyamāno mutto pāpimato.

Imassa kho, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti.

—Tốt lắm, tốt lắm, này Tỳ khưu với lời nói cô đọng của Ta, Thầy đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi.

Ai chấp thủ sắc bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ sắc giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ thọ bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ thọ giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ tưởng bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ tưởng giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ hành bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ hành giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp thủ thức bị trói buộc bởi Ác ma; ai không chấp thủ thức giải thoát khỏi Ác ma.

Này Tỳ khưu, như vậy với lời nói cô đọng này của Ta, Thầy đã hiểu một cách rộng rãi.

Atha kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.

Atha kho so bhikkhu eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati.

“Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti abbhaññāsi. Aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosīti.

Rồi vị tỳ khưu ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía phải hướng về Ngài rồi ra đi.

Và vị tỳ khưu ấy sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng, không bao lâu chứng được mục đích, mà một thiện gia nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ thế tục, sống không gia đình hướng đến là vô thượng cứu cánh phạm hạnh. Vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Vị tỳ khưu ấy đã trở thành một trong những vị vô sanh ứng cúng.

 

 

Chú Thích

Đây là bài kinh mở đầu Phẩm A la hán (arahantavagga), với những bài kinh ghi lại sự thành tựu viên mãn giác ngộ của những đệ tử Phật.

Theo một số học giả thì khi kết tập, Tôn giả Ananda dùng cách gọi “một tỳ khưu nọ - aññataro bhikkhu” chứ không nêu danh tính chính xác, bởi vì có quá nhiều những vị xuất gia rồi chứng đắc quả vô sanh ứng cúng, với nếp sống hữu dư y thầm lặng nên không thể nêu hết chi tiết.

Theo Sớ Giải, sự chấp thủ (upādiyamāno) ở đây gồm ái chấp, mạn chấp và kiến chấp. Nói cách khác là chấp thủ “đây là của ta, đây là ta, đây là tự ngã của ta”.

Nội dung bài kinh này mang ý nghĩa về sự quán chiếu năm uẩn, với cái nhìn không chấp thủ. Trong nhiều bài kinh trước đây, ghi lại lời Phật dạy với trình tự chi tiết hơn: Do quán chiếu sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ não, vô ngã, hành giả không chấp thủ “đây là của ta, đây là ta, đây là tự ngã của ta”; do không chấp thủ vị ấy ly tham; do ly tham tâm được giải thoát. Đây là trình tự của sự tu tập (pháp hành). Kinh điển chữ Hán thường dùng cụm từ “ngũ uẩn giai không” với ý nghĩa tương tự, nhưng vì lý do gì đó (…) thường mang tính triết lý hơn là ứng dụng cụ thể.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Sớ Giải Kinh Upādiyamāna

arahantavaggassa paṭhame upādiyamānoti taṇhāmānadiṭṭhivasena gaṇhamāno. baddho mārassāti mārassa pāsena baddho nāma. mutto pāpimatoti pāpimato pāsena mutto nāma hoti. paṭhamaṃ.