Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - THÂN BỆNH NHƯNG TÂM KHÔNG KHÔNG BỆNH - Kinh Mảnh Vụn (Sakalikasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - THÂN BỆNH NHƯNG TÂM KHÔNG KHÔNG BỆNH - Kinh Mảnh Vụn (Sakalikasuttaṃ)

, 05/03/2022, 15:07 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 5.3.2022


THÂN BỆNH NHƯNG TÂM KHÔNG KHÔNG BỆNH

Kinh Mảnh Vụn (Sakalikasuttaṃ)

(CHƯƠNG IV. TƯƠNG ƯNG ÁC MA, PHẨM THỨ HAI) (S.i, 110)

Không có bất cứ ai có thể đoạt mạng một vị chánh đẳng chánh giác. Nhưng chúng sanh tội lỗi có thể làm thân Như Lai chảy máu. Devadatta từng mưu sát Đức Thế Tôn bằng cách lăn tảng đá lớn với ý định giết Ngài. Ngày nay tảng đá vẫn có vướng trên triền núi nhưng một mảnh vỡ nhỏ đã khiến chân Phật bị thương.

Đức Thế Tôn nằm trong tịnh thất dưỡng thương chân. Ma vương hiện đến chế nhạo. Đức Phật nhân đó đã nói lên ý nghĩa về sự khác biệt giữa bậc thánh hoàn toàn giải thoát khi mang thân hữu dư y dù thân có bị khổ thọ nhưng tâm an nhiên. Hình ảnh mũi tên cũng được đề cập trong một bài kinh khác khi Phật dạy chúng sanh bị một lúc hai mũi tên là khổ thọ của thân và phiền não của tâm trong lúc các bậc thánh thì dù thân có khổ nhưng tâm không bi luỵ. Riêng trong bài kinh nầy Đức Phật dùng mũi tên xuyên tim là ví dụ cho ái chấp. Ngài đã nhỗ mũi tên ái nên chẳng còn chấp thủ về ngã, ngã sở giữa thế gian nầy thì tất cả sự lo sợ, khỗ não, bận lòng về bản thân đều không có.


Evaṃ me sutaṃ

Tôi được nghe như vầy

ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye.

Thuở ấy Đức Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), tại vườn Nai Maddakucchi.

Tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hoti, bhusā sudaṃ bhagavato vedanā vattanti sārīrikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā. Tā sudaṃ bhagavā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno. Atha kho bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññapetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappesi pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno.

Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị thương tích bởi một mảnh đá. Thân Thế Tôn cảm thọ đau đớn, rát buốt, nhức nhối mãnh liệt, không thoải mái, không dễ chịu. Rồi Đức Thế Tôn xếp y kép làm bốn trãi nằm với dáng sư tử một chân trên chân kia, với chánh niệm tỉnh giác nhẫn chịu không bi luỵ .

Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn nói với Ngài kệ ngôn:

Mandiyā nu kho sesi udāhu kāveyyamatto,

Atthā nu te sampacurā na santi;

Eko vivitte sayanāsanamhi,

Niddāmukho kimidaṃ soppase vā’’ti.

Sao lại nằm miên man?

Ngài đang tìm thi tứ?

Việc cần làm xong rồi?

Trong tịnh thất một mình,

Với gương mặt ngái ngủ.

(Thế Tôn)

‘‘Na mandiyā sayāmi nāpi kāveyyamatto,

Atthaṃ sameccāhamapetasoko;

Eko vivitte sayanāsanamhi,

Sayāmahaṃ sabbabhūtānukampī.

‘‘Yesampi sallaṃ urasi paviṭṭhaṃ,

Muhuṃ muhuṃ hadayaṃ vedhamānaṃ;

Tepīdha soppaṃ labhare sasallā,

Tasmā ahaṃ na supe vītasallo.

‘‘Jaggaṃ na saṅke napi bhemi sottuṃ,

Rattindivā nānutapanti māmaṃ;

Hāniṃ na passāmi kuhiñci loke,

Tasmā supe sabbabhūtānukampī’’ti.

(Thế Tôn)

‘‘Ta không ngủ mê mệt,

Cũng không tìm thi hứng,

Cứu cánh đã đạt được,

Ta không còn sầu não,

Nằm một mình am vắng,

Tâm bi mẫn thương đời.

‘‘Kẻ bị tên xuyên tim.

Trong cơn đau vẫn ngủ.

Ta đã nhỗ tên ra.

Cớ gì không an giấc?

‘‘Ta không nằm âu lo,

Cũng chẳng sợ giấc ngủ,

Ngày đêm chẳng bận lòng,

Ta không thấy chính mình,

Tổn giảm trong đời nầy,

Do vậy ta nằm nghỉ,

Thương tất cả chúng sanh.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ bhagavā, jānāti maṃ sugato’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta" nên buồn và thất vọng liền biến mất tại chỗ ấy.


‘‘Mandiyā nu kho sesi udāhu kāveyyamatto Sao Ngài lại nằm miên man? Đang tìm cảm hứng làm thơ?

Atthā nu te sampacurā na santi

Không có những việc cần phải hoàn tất hay sao?

Eko vivitte sayanāsanamhi 

Ở một mình trong am thất cô tịch

Niddāmukho kimidaṃ soppase vā’’ti 

Sao lại ngủ với mặt mê mệt vậy?

‘‘Na mandiyā sayāmi nāpi kāveyyamatto

Ta chẳng nằm mê mệt mà cũng chẳng tìm thi tứ

Atthaṃ sameccāhamapetasoko

Đã đạt tới cứu cánh, ta không còn phiền muộn

Eko vivitte sayanāsanamhi

Ở một mình trong am thất cô tịch

Sayāmahaṃ sabbabhūtānukampī

Ta nằm với lòng thương xót tất cả sinh linh

‘‘Yesampi sallaṃ urasi paviṭṭhaṃ

Ngay cả người bị tên bắn vào ngực

Muhuṃ muhuṃ hadayaṃ vedhamānaṃ

Nhói tim từng hồi

Tepīdha soppaṃ labhare sasallā

Ngay cả đau đớn thế vẫn ngủ được

Tasmā ahaṃ na supe vītasallo

Vậy tại sao ta không không ngủ được khi mũi tên đã nhỗ ra?

‘‘Jaggaṃ na saṅke napi bhemi sottuṃ

Ta không nằm lo âu khi thức hoặc sợ hãi giấc ngủ
Rattindivā nānutapanti māmaṃ Ngày và đêm chẳng khiến bận lòng
Hāniṃ na passāmi kuhiñci loke Ta không thấy sự tổn giảm bản thân giữa cuộc đời

Tasmā supe sabbabhūtānukampī’’ti

Nên chi ta nằm với tâm thương xót tất cả chúng sanh.

Maddakucchi tên một tịnh xá dưới chân núi Linh Thứu cách vườn xoài của Thái y Jīvaka không xa. Tịnh xá nầy cũng là vườn nai.

Điệp ngữ muhuṁ muhuṁ không thấy lời chú thích trong Sớ giải bài kinh nầy nhưng trong Trưởng Lão Tăng Kệ thì chú thích là “từng hồi, từng hồi”.

Điều thú vị là trong văn học Phạn ngữ hình ảnh mũi tên xuyên tim chỉ cho ái trong lúc văn hoá Phương Tây cũng chỉ cho tình yêu. Tuy vậy hai sự biểu đạt mang tính đối lập giữ khổ đau và hạnh phúc.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

3. Sakalikasuttaṃ [Mūla]

149. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye. Tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hoti, bhusā sudaṃ bhagavato vedanā vattanti sārīrikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā. Tā sudaṃ bhagavā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno. Atha kho bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññapetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappesi pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno. Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Mandiyā nu kho sesi udāhu kāveyyamatto,

Atthā nu te sampacurā na santi;

Eko vivitte sayanāsanamhi,

Niddāmukho kimidaṃ soppase vā’’ti.

‘‘Na mandiyā sayāmi nāpi kāveyyamatto,

Atthaṃ sameccāhamapetasoko;

Eko vivitte sayanāsanamhi,

Sayāmahaṃ sabbabhūtānukampī.

‘‘Yesampi sallaṃ urasi paviṭṭhaṃ,

Muhuṃ muhuṃ hadayaṃ vedhamānaṃ;

Tepīdha soppaṃ labhare sasallā,

Tasmā ahaṃ na supe vītasallo.

‘‘Jaggaṃ na saṅke napi bhemi sottuṃ,

Rattindivā nānutapanti māmaṃ;

Hāniṃ na passāmi kuhiñci loke,

Tasmā supe sabbabhūtānukampī’’ti.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ bhagavā, jānāti maṃ sugato’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

3. Sakalikasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

149. Tatiye mandiyā ti mandabhāvena momūhabhāvena. Udāhu kāveyyamattoti udāhu yathā kavi kabbaṃ cintento tena kabbakaraṇena matto sayati, evaṃ sayasi. Sampacurāti bahavo. Kimidaṃ soppase vāti kasmā idaṃ soppaṃ soppasiyeva? Atthaṃ sameccāti atthaṃ samāgantvā pāpuṇitvā. Mayhaṃ hi asaṅgaho nāma saṅgahavipanno vā attho natthi. Sallanti tikhiṇaṃ sattisallaṃ. Jaggaṃ na saṅketi yathā ekacco sīhapathādīsu jagganto saṅkati, tathā ahaṃ jaggantopi na saṅkāmi. Napi bhemi sottunti yathā ekacco sīhapathādīsuyeva supituṃ bhāyati, evaṃ ahaṃ supitumpi na bhāyāmi. Nānutapanti māmanti yathā ācariyassa vā antevāsikassa vā aphāsuke jāte uddesaparipucchāya ṭhitattā antevāsiṃ rattindivā atikkamantā anutapanti, evaṃ maṃ nānutapanti. Na hi mayhaṃ kiñci apariniṭṭhitakammaṃ nāma atthi. Tenevāha hāniṃ na passāmi kuhiñci loketi. Tatiyaṃ.