Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || PHẢI KHÉO MỚI THẤY - Kinh Đoạn Diệt Vui Thích II (Dutiyanandikkhayasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || PHẢI KHÉO MỚI THẤY - Kinh Đoạn Diệt Vui Thích II (Dutiyanandikkhayasuttaṃ)

Tuesday, 30/04/2024, 18:14 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 30.4.2024

PHẢI KHÉO MỚI THẤY

Kinh Đoạn Diệt Vui Thích II (Dutiyanandikkhayasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần I-Phẩm Chính Mình Là Hải Đảo (S,iii,52)

Trong phép tác xạ, không phải chỉ bắn là trúng đích, mà còn phải biết khéo nhắm mục tiêu. Đây là một thí dụ về vai trò của như lý tác ý đối với sự thấy biết thực tướng sanh diệt. Sự liên đới này đặc biệt quan trọng đối với người hành thiền quán. Không có như lý tác ý, hành giả chỉ có phản ứng và chạy theo những gì xảy ra ở thân và tâm (tức năm uẩn). Biết đưa những gì xảy ra vào tầm ngắm của chánh niệm; biết ghi nhận những gì xảy ra mà không phản ứng; biết được sự sanh và diệt của các hiện tượng của năm uẩn trong những khoảnh khắc ngắn ngũi. Sự trạng thế nào ghi nhận như vậy. Không ảo tưởng; không tưởng tượng; không cố điều khiển. Vượt khỏi thói quen đòi hỏi khéo léo. Nhận biết thực tướng vô thường là kết quả sơ khởi mà hành giả nếm trải được.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ.

“Rūpaṃ, bhikkhave, yoniso manasi karotha, rūpāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Rūpaṃ, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, rūpāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassanto rūpasmiṃ nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccati.

Nhân duyên ở Sāvatthi …

—Này chư Tỳ khưu, hãy khéo tác ý đối với sắc; hãy nhận biết thực tánh vô thường của sắc. Do khéo tác ý đối với sắc; do khéo lãnh hội thực tánh vô thường của sắc, người tu tập cảm nhận nhàm chán đối với sắc. Sự vui thích đoạn diệt nên ham muốn được đoạn diệt. Do ham muốn đoạn diệt nên vui thích đoạn diệt. Do vui thích và ham muốn đoạn diệt, tâm được giải thoát. Vị ấy được gọi là vị đã khéo giải thoát.

Vedanaṃ, bhikkhave, yoniso manasi karotha, vedanāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Vedanaṃ, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, vedanāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassanto vedanāya nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccati.

Saññaṃ bhikkhave …

saṅkhāre, bhikkhave, yoniso manasi karotha, saṅkhārāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Saṅkhāre, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, saṅkhārāniccataṃ yathābhūtaṃ samanupassanto saṅkhāresu nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccati.

Viññāṇaṃ, bhikkhave, yoniso manasi karotha, viññāṇāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Viññāṇaṃ, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, viññāṇāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassanto viññāṇasmiṃ nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccatī”ti.

hãy khéo tác ý đối với thọ

… hãy khéo tác ý đối với tưởng ...

… hãy khéo tác ý đối với hành …

Này chư Tỳ khưu, hãy khéo tác ý đối với thức; hãy nhận biết thực tánh vô thường của thức. Do khéo tác ý đối với thức; do khéo lãnh hội thực tánh vô thường của thức, người tu tập cảm nhận nhàm chán đối với thức. Sự vui thích đoạn diệt nên ham muốn được đoạn diệt. Do ham muốn đoạn diệt nên vui thích đoạn diệt. Do vui thích và ham muốn đoạn diệt, tâm được giải thoát. Vị ấy được gọi là vị đã khéo giải thoát.

Chú Thích

Mệnh đề “yoniso manasi karotha” (hãy khéo tác ý) và “yathābhūtaṃ samanupassatha” (hãy lãnh hội thực tánh) được thí dụ trong Milindapanha như người làm ruộng, một tay gom lúa và một tay cắt lúa. Tay gom lúa đuợc ví cho “khéo tác ý”, dao cắt lúa ví cho trí tuệ quán tri bản chất thật của năm uẩn.

Bài kinh này, là lời dạy của Đức Phật cho những vị đang tu tập thiền quán (vipassana) với sự khéo quán sát sắc, thọ, tưởng, hành, thức và thấy rõ được tướng trạng sanh diệt bằng sự nhận thức trực tiếp.

Đoạn sau của bài kinh nói về hiệu ứng do thấy rõ thực tướng sanh diệt, mang ý nghĩa giống như bài kinh trước.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

10. Dutiyanandikkhayasuttaṃ

52. Sāvatthinidānaṃ.

“Rūpaṃ, bhikkhave, yoniso manasi karotha, rūpāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Rūpaṃ, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, rūpāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassanto rūpasmiṃ nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccati.

Vedanaṃ, bhikkhave, yoniso manasi karotha, vedanāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Vedanaṃ, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, vedanāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassanto vedanāya nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccati.

Saññaṃ bhikkhave …

saṅkhāre, bhikkhave, yoniso manasi karotha, saṅkhārāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Saṅkhāre, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, saṅkhārāniccataṃ yathābhūtaṃ samanupassanto saṅkhāresu nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccati.

Viññāṇaṃ, bhikkhave, yoniso manasi karotha, viññāṇāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassatha. Viññāṇaṃ, bhikkhave, bhikkhu yoniso manasi karonto, viññāṇāniccatañca yathābhūtaṃ samanupassanto viññāṇasmiṃ nibbindati. Nandikkhayā rāgakkhayo, rāgakkhayā nandikkhayo. Nandirāgakkhayā cittaṃ vimuttaṃ suvimuttanti vuccatī”ti.

Dasamaṃ.