Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || NÓI ĐÚNG TỐT HƠN NÓI HAY - Kinh Người Thuyết Giảng Chánh Pháp (Dhammakathikapucchasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || NÓI ĐÚNG TỐT HƠN NÓI HAY - Kinh Người Thuyết Giảng Chánh Pháp (Dhammakathikapucchasuttaṃ)

Tuesday, 03/06/2025, 03:34 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 29.5.2025

NÓI ĐÚNG TỐT HƠN NÓI HAY

Kinh Người Thuyết Giảng Chánh Pháp (Dhammakathikapucchasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Mới Và Cũ (SN.35.155)

Khi nói đến lương dược thì phải nói đến hiệu năng trị bệnh. Gọi là chánh pháp phải là pháp có hiệu năng hướng thiện, hướng thượng. Cứu cánh của Phật Pháp là giác ngộ giải thoát. Người thuyết giảng chánh pháp đúng nghĩa là người dùng ngôn từ khai thị để người nghe từ bỏ sở chấp đối với thế giới trầm luân sanh tử. Thế giới đó, nói một cách toàn diện, bao gồm căn, cảnh, thức vốn là những gì khó buông xả đối với chúng sanh trong đời. Tuyên thuyết đạo giải thoát, hành trì đạo giải thoát, chứng đắc đạo giải thoát là phương châm hành hoạt của những ai đi theo bước chân của Đức Phật.

KINH VĂN

155. atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami ... pe ... ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — “‘dhammakathiko, dhammakathiko’ti, bhante, vuccati. kittāvatā nu kho, bhante, dhammakathiko hotī”ti?

 “cakkhussa ce, bhikkhu nibbidāya virāgāya nirodhāya dhammaṃ deseti, ‘dhammakathiko bhikkhū’ti alaṃvacanāya. cakkhussa ce, bhikkhu, nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti, ‘dhammānudhammappaṭipanno bhikkhū’ti alaṃvacanāya. cakkhussa ce, bhikkhu, nibbidā virāgā nirodhā anupādāvimutto hoti, ‘diṭṭhadhammanibbānappatto bhikkhū’ti alaṃvacanāya ... pe ... jivhāya ce, bhikkhu, nibbidāya virāgāya nirodhāya dhammaṃ deseti, ‘dhammakathiko bhikkhū’ti alaṃvacanāya ... pe ... manassa ce, bhikkhu, nibbidāya virāgāya nirodhāya dhammaṃ deseti, ‘dhammakathiko bhikkhū’ti alaṃvacanāya. manassa ce, bhikkhu, nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti, ‘dhammānudhammappaṭipanno bhikkhū’ti alaṃvacanāya. manassa ce, bhikkhu, nibbidā virāgā nirodhā anupādāvimutto hoti, ‘diṭṭhadhammanibbānappatto bhikkhū’ti alaṃvacanāyā”ti. dasamaṃ.

155. Rồi một vị Tỳ khưu đi đến Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Vị ấy bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, người ta nói: ‘Bậc thuyết giảng Chánh Pháp, bậc thuyết giảng Chánh Pháp.’ Vậy như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là một vị Tỳ khưu thuyết giảng Chánh Pháp?”

[ Đức Phật dạy:]

“Này Tỳ khưu, nếu một người thuyết giảng pháp nhằm mục đích giúp người nghe sanh tâm nhàm chán (nibbidā) đối với mắt, dẫn đến sự ly tham (virāga) và diệt tận (nirodha) của mắt, thì người ấy được gọi là Tỳ khưu thuyết giảng Chánh Pháp.

Nếu một người tu tập nhằm mục đích sanh tâm nhàm chán đối với mắt, hướng đến ly tham và diệt tận, thì người ấy là Tỳ khưu hành trì đúng theo Chánh Pháp.

Nếu do nhàm chán đối với mắt, do ly tham và diệt tận, mà người ấy giải thoát khỏi chấp thủ, thì được gọi là Tỳ khưu đã chứng đạt Niết-bàn ngay trong đời này.

“Này Tỳ khưu, cũng như vậy, nếu một người thuyết giảng Pháp để dẫn đến nhàm chán, ly tham và diệt tận của tai… mũi… lưỡi… thân… ý… thì được gọi là Tỳ khưu thuyết giảng Chánh Pháp.

…Tu tập nhằm mục đích nhàm chán, ly tham và diệt tận đối với ý, thì là Tỳ khưu hành đúng theo Chánh Pháp.

Và nếu do nhàm chán, ly tham và diệt tận đối với ý căn mà người ấy giải thoát khỏi chấp thủ, thì được gọi là Tỳ khưu chứng đạt Niết-bàn trong đời hiện tại.”

CHÚ THÍCH

Chữ dhamma – pháp – là thuật ngữ mang nhiều ý nghĩa rất rộng. Dhamma có ý nghĩa là lời Phật dạy mà cũng có nghĩa là bản chất tự nhiên của vạn hữu. Chữ dhamma trong bài kinh này có thể hiểu theo cả hai.

Chữ dhamma trên phương diện ngữ pháp có khi bao gồm tất cả phương diện thiện, bất thiện, vô ký; cũng có lúc đặc biệt nói về thiện pháp như dhamma ca adhamma – pháp và phi pháp. Chữ dhammakathika ở đây phải được hiểu là “người nói đúng pháp, hay bậc thuyết giảng chánh pháp”.

SỚ GIẢI

154-155. navame indriyasampannoti paripuṇṇindriyo. tattha yena cha indriyāni sammasitvā arahattaṃ pattaṃ, so tehi nibbisevanehi indriyehi samannāgatattā, cakkhādīni vā cha indriyāni sammasantassa uppannehi saddhādīhi indriyehi samannāgatattā paripuṇṇindriyo nāma hoti, taṃ sandhāya bhagavā cakkhundriye cetiādinā nayena desanaṃ vitthāretvā ettāvatā kho bhikkhu indriyasampanno hotīti āha. dasamaṃ heṭṭhā vuttanayamevāti.

154–155. Chú thích bài kinh số 9: "Người thành tựu các căn" (Indriyasampanno)

"Navame indriyasampannoti paripuṇṇindriyo" – Trong bài kinh thứ chín (Navama Sutta), “người thành tựu các căn” (indriyasampanno) có nghĩa là người có các căn được viên mãn (paripuṇṇa-indriyo).

Tattha yena cha indriyāni sammasitvā arahattaṃ pattaṃ – Ở đây, người quán sát đúng đắn sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và chứng đạt quả A-la-hán.

so tehi nibbisevanehi indriyehi samannāgatattā – chính là người đã đoạn tận sự chấp thủ với các căn ấy, do vậy được xem là đầy đủ các căn (tức đã thanh tịnh và không còn bị lôi cuốn bởi các căn).

Cakkhādīni vā cha indriyāni sammasantassa uppannehi saddhādīhi indriyehi samannāgatattā – Hoặc là: trong lúc vị ấy quán sát sáu căn như mắt, v.v., thì những năng lực tinh thần như tín (saddhā), tinh tấn, niệm, định, tuệ phát sinh, nên người ấy được gọi là thành tựu các căn (ý nói đến ngũ quyền/ngũ lực phát sinh khi thực hành quán căn).

Taṃ sandhāya bhagavā "cakkhundriye cetiādinā nayena" desanaṃ vitthāretvā… – Vì vậy, Đức Thế Tôn đã mở rộng bài thuyết giảng theo cách trình bày bắt đầu bằng “trong khi quán sát nhãn căn…”

…ettāvatā kho bhikkhu indriyasampanno hotīti āha. – và kết luận rằng: “Này Tỳ khưu, như vậy là người thành tựu các căn.”

Dasamaṃ heṭṭhā vuttanayamevāti. – Bài kinh thứ mười (Dasama Sutta) tiếp theo cũng theo phương pháp giảng giải như đã nói ở trên (ý nói không cần lặp lại nữa vì cách giảng tương tự).

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

154. X. Vị Thuyết Pháp (S.iv,141)

1) ...

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...

3) Ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- "Vị thuyết pháp, vị thuyết pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là vị thuyết pháp?

4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt mắt, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với mắt, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thành tựu pháp và thuận pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với mắt, được giải thoát không có chấp thủ, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo chứng được Niết-bàn ngay trong hiện tại.

5-8) ... tai... mũi... lưỡi... thân...

9) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt ý, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với ý, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp và thuận pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với ý, được giải thoát không có chấp thủ, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đạt được Niết-bàn ngay trong hiện tại.