- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 16.5.2025
NỢ ĐẺ RA NỢ
Kinh Chấm Dứt Nghiệp (Kammanirodhasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Devadaha (SN.35.146)
Sự tồn tại của kiếp trầm luân, qua phương diện nghiệp báo là chuỗi dài của sự vay trả, trả vay kéo dài đăng đẳng. Như một người nghèo cả đời bị kẹt trong cảnh túng thiếu nợ nần, lắm lúc vui vì vay được tiền để rồi còng lưng trả nợ. Nghiệp, quả, phiền não tạo thành vòng sinh hoá đưa vạn loài vào sự ngụp lặn của biển tử sinh muôn thuở. Đấng Đại Giác đã chỉ ra con đường giải thoát bằng sự đoạn tận vô minh và ái. Ở cách nói nào đó, sự giải thoát chân thực là vượt khỏi những trả vay của nghiệp lực.
KINH VĂN
146. “navapurāṇāni, bhikkhave, kammāni desessāmi kammanirodhaṃ kammanirodhagāminiñca paṭipadaṃ. taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha; bhāsissāmīti. katamañca, bhikkhave, purāṇakammaṃ? cakkhu, bhikkhave, purāṇakammaṃ abhisaṅkhataṃ abhisañcetayitaṃ vedaniyaṃ daṭṭhabbaṃ ... pe ... jivhā purāṇakammā abhisaṅkhatā abhisañcetayitā vedaniyā daṭṭhabbā ... pe ... mano purāṇakammo abhisaṅkhato abhisañcetayito vedaniyo daṭṭhabbo. idaṃ vuccati, bhikkhave, purāṇakammaṃ. katamañca, bhikkhave, navakammaṃ? yaṃ kho, bhikkhave, etarahi kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā, idaṃ vuccati, bhikkhave, navakammaṃ. katamo ca, bhikkhave, kammanirodho? yo kho, bhikkhave, kāyakammavacīkammamanokammassa nirodhā vimuttiṃ phusati, ayaṃ vuccati, bhikkhave, kammanirodho. katamā ca, bhikkhave, kammanirodhagāminī paṭipadā? ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ — sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā, sammākammanto, sammāājīvo, sammāvāyāmo, sammāsati, sammāsamādhi — ayaṃ vuccati, bhikkhave, kammanirodhagāminī paṭipadā. iti kho, bhikkhave, desitaṃ mayā purāṇakammaṃ, desitaṃ navakammaṃ, desito kammanirodho, desitā kammanirodhagāminī paṭipadā. yaṃ kho, bhikkhave, satthārā karaṇīyaṃ sāvakānaṃ hitesinā anukampakena anukampaṃ upādāya, kataṃ vo taṃ mayā. etāni, bhikkhave, rukkhamūlāni, etāni suññāgārāni. jhāyatha, bhikkhave, mā pamādattha; mā pacchāvippaṭisārino ahuvattha. ayaṃ vo amhākaṃ anusāsanī”ti. paṭhamaṃ.
“Này chư Tỳ khưu, Ta sẽ giảng cho các Thầy về nghiệp cũ, nghiệp mới, sự đoạn diệt của nghiệp và con đường đưa đến sự đoạn diệt của nghiệp. Hãy lắng nghe và chú tâm, Ta sẽ thuyết giảng…
Thế nào là nghiệp cũ, này chư Tỳ khưu?
Mắt là nghiệp cũ, cần được thấy như là được tạo tác và hình thành bởi tư niệm, là thứ đem lại cảm thọ. Tai là nghiệp cũ… Ý cũng là nghiệp cũ, cần được thấy như là được tạo tác và hình thành bởi tư niệm, là thứ đem lại cảm thọ. Đây được gọi là nghiệp cũ.
Thế nào là nghiệp mới, này chư Tỳ khưu?
Bất kỳ hành động nào mà hiện tại một người thực hiện bằng thân, khẩu, hay ý, thì được gọi là nghiệp mới.
Thế nào là sự đoạn diệt của nghiệp, này chư Tỳ khưu?
Khi một người đạt được giải thoát thông qua sự chấm dứt hành động về thân, khẩu và ý, điều đó được gọi là sự đoạn diệt của nghiệp.
Thế nào là con đường đưa đến sự đoạn diệt của nghiệp, này chư Tỳ khưu?
Chính là thánh đạo tám chi phần, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây được gọi là con đường đưa đến sự đoạn diệt của nghiệp.
Như vậy, này chư Tỳ khưu, Ta đã giảng về nghiệp cũ, nghiệp mới, sự đoạn diệt của nghiệp và con đường dẫn đến sự đoạn diệt ấy. Những gì một bậc Đạo sư đầy lòng từ bi, vì thương tưởng đệ tử và mong muốn điều tốt lành cho họ, cần phải làm — Ta đã làm xong cho các Thầy.
Này chư Tỳ khưu, kia là các gốc cây, nọ là các am thất trống. Hãy hành thiền, chớ có giải đãi, kẻo phải hối tiếc sau này. Đó là lời dạy của Ta gửi đến các Thầy.”
CHÚ THÍCH
Cụm từ navapurāṇāni -cũ và mới - chỉ cho sự pha lẫn giữa nghiệp và quả, mới và cũ trong cuộc sống. Tất cả không do tiền định. Mà tất cả cũng không hoàn toàn tách biệt với quá khứ. Như tiền vay nợ đem trả nợ của người nghèo, tất cả là vòng cuốn xoáy của trả vay, vay trả.
Sáu nội xứ được gọi là “sắc nghiệp” là quả của nghiệp quá khứ.
Cetanā thường được dịch là “tư” hay “tư niệm” là chủ tâm tạo tác hay ý chí hành động. Đức Phật dạy Cetanā chính là nghiệp.
Theo Thắng Pháp Abhidhamma, chỉ có bậc đoạn tận vô minh và ái thì sở hành mới không tạo nghiệp được gọi là “duy tác-kiriya” nghĩa là “chỉ có hành động chứ không tạo quả”.
SỚ GIẢI
146. navapurāṇavaggassa paṭhame navapurāṇānīti navāni ca purāṇāni ca. cakkhu, bhikkhave, purāṇakammanti na cakkhu purāṇaṃ, kammameva purāṇaṃ, kammato pana nibbattattā paccayanāmena evaṃ vuttaṃ. abhisaṅkhatanti paccayehi abhisamāgantvā kataṃ. abhisañcetayitanti cetanāya pakappitaṃ. vedaniyaṃ daṭṭhabbanti vedanāya vatthūti passitabbaṃ. nirodhā vimuttiṃ phusatīti imassa tividhassa kammassa nirodhena vimuttiṃ phusati. ayaṃ vuccatīti ayaṃ tassā vimuttiyā ārammaṇabhūto nirodho kammanirodhoti vuccati. iti imasmiṃ sutte pubbabhāgavipassanā kathitā.
146. Trong bài kinh đầu tiên của phẩm "Nghiệp Mới và Cũ" (Navapurāṇavagga):
Cụm từ “navapurāṇāni” có nghĩa là: nghiệp mới (nava) và nghiệp cũ (purāṇa).
Câu “cakkhu, bhikkhave, purāṇakammaṃ” (này chư Tỳ khưu, mắt là nghiệp cũ) không có nghĩa là chính con mắt là nghiệp cũ, mà nghiệp tạo ra mắt mới là nghiệp cũ. Vì mắt sinh khởi do nghiệp, nên dựa theo tên gọi theo nhân duyên (paccaya-nāma) mà nói như vậy.
Câu “nirodhā vimuttiṃ phusati” có nghĩa là: với sự đoạn diệt của ba loại nghiệp (thân, khẩu, ý), người ấy đạt được giải thoát.
Câu “ayaṃ vuccati kammanirodho”: tức là sự đoạn diệt này, vì là đối tượng dẫn đến giải thoát, nên được gọi là đoạn diệt nghiệp (kammanirodha).
Như vậy, trong bài kinh này, phần đầu chính là đang trình bày về tuệ quán căn bản (pubbabhāga-vipassanā) – tức là giai đoạn tu tập ban đầu để phát triển minh sát tuệ (vipassanā).
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu
145. I. Nghiệp (S.iv,132)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết về các nghiệp mới và cũ, sự đoạn diệt các nghiệp, con đường đưa đến sự đoạn diệt các nghiệp. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
3) Này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp cũ?
Mắt, này các Tỷ-kheo, cần phải quán là nghiệp cũ, được tác thành, được tư niệm, được cảm thọ. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý cần phải quán là nghiệp cũ, được tác thành, được tư niệm, được cảm thọ.
Các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp cũ.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp mới? Này các Tỷ-kheo, hiện tại phàm làm việc gì với thân, với lời nói, hay với ý. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp mới.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đoạn diệt? Sự đoạn diệt thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp, nhờ vậy cảm thấy giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp đoạn diệt.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt? Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.
7) Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta đã giảng cho các Ông nghiệp cũ, đã giảng nghiệp mới, đã giảng nghiệp đoạn diệt, đã giảng con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.
8) Này các Tỷ-kheo, phàm những gì bậc Ðạo Sư cần phải làm vì hạnh phúc, vì lòng thương đệ tử, những việc ấy Ta đã làm cho các Ông, vì lòng thương tưởng các Ông.
9) Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Hãy Thiền tư, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.