- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 27.11.2021
NGƯỜI TRÍ BIẾT NHÌN XA HIỂU RỘNG
Kinh Tuổi Trẻ (Daharasuttaṃ)
(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ NHẤT) (S.i, 68)
Một trong những nguyên nhân gây hoạ trong đời người là sự bất cẩn với những điều nghĩ là nhỏ nhoi nhưng thực tế thì không phải vậy. Bài kinh nầy ghi lại giai thoại thú vị khi vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) gặp Đức Phật lần đầu tiên. Nhà vua cùng tuổi với Đức Phật. Năm đó Đức Phật khoảng 42 tuổi và vừa đến hoằng hoá ở kinh đô Sāvatthi, vương quốc Kosala. Nhà vua đến trong tư cách của một vị khách viếng, hơn thế nữa, là vị vua trong vương quốc. Khởi đầu câu chuyện nhà vua đem vấn đề tuổi tác như thước đo trình độ tu chứng. Đức Phật trả lời về bốn điều không nên xem thường chỉ vì “trẻ” hay “bé nhỏ” đó là vị hoàng tử trẻ, con rắn nhỏ, đốm lửa nhỏ, và vị sa môn trẻ. Lời dạy súc tích của Đức Phật đã dạy nhà vua điều quan trọng: Phải nhìn xa, hiểu rộng sự việc hơn là chỉ dựa trên quan niệm thường tình.
Có hai điểm mang sức thuyết phục lớn đối với nhà vua: Một là Đức Phật nêu lên bốn thứ cần cẩn trọng chứ không nói chỉ tôn vinh cá nhân. Rõ ràng mang tính khách quan. Hai là nhà vua, bản thân có tài lên ngôi từ khi niên thiếu nên nhanh chóng hiểu rất rõ những gì Phật dạy.
Bản dịch của HT Thích Minh Châu | Bản hiệu đính | |
Evaṃ me sutaṃ – Như vầy tôi nghe. |
||
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). |
||
Atha kho rājā pasenadi kosalo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Rồi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosala (Kiều-tát-la) đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. |
||
Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: |
||
‘‘bhavampi no gotamo anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti paṭijānātī’’ti? -- Tôn giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác không? |
||
‘‘Yañhi taṃ, mahārāja, sammā vadamāno vadeyya ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti, mameva [mamaṃ (sabbattha)] taṃ sammā vadamāno vadeyya. Ahañhi, mahārāja, anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’’ti. -- Thưa Ðại vương, nếu có ai có thể nói một cách chơn chánh là mình đã chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thời người ấy phải chính là Ta. Thưa Ðại vương, Ta đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. |
||
‘‘Yepi te, bho gotama, samaṇabrāhmaṇā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathidaṃ – pūraṇo kassapo, makkhali gosālo, nigaṇṭho nāṭaputto, sañcayo belaṭṭhaputto, pakudho kaccāyano, ajito kesakambalo; tepi mayā ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti paṭijānāthā’ti puṭṭhā samānā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti na paṭijānanti. Kiṃ pana bhavaṃ gotamo daharo ceva jātiyā navo ca pabbajjāyā’’ti? -- Thưa Tôn giả Gotama, có những vị Sa-môn, Bà-la-môn là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng. Như ngài Purana Kassapa, Makkali Gosāla, Nigantha Nātaputta, Sanjaya Belatthiputta, Kakudha Kaccāyana, Ajita Kesakambala. Khi con hỏi các vị ấy: "Có tự xem là đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không?", thời họ đã trả lời, không tự xem mình đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy làm sao Tôn giả Gotama, trẻ tuổi, sanh sau đẻ muộn, và chỉ mới xuất gia lại tự cho mình như vậy? |
||
‘‘Cattāro kho me, mahārāja, daharāti na uññātabbā, daharāti na paribhotabbā. Katame cattāro? -- Thưa Ðại vương, có bốn loại trẻ tuổi không nên khinh thường, hay không nên miệt thị vì họ là trẻ. Thế nào là bốn? |
||
Khattiyo kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. Urago kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. Aggi kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. Bhikkhu, kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. -- Thưa Ðại vương, Khattiya trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì họ là trẻ. Thưa Ðại vương, con rắn trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì chúng là trẻ. Thưa Ðại vương, ngọn lửa trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì chúng là trẻ. Thưa Ðại vương, Tỷ-kheo trẻ tuổi không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì họ là trẻ. Hiệu đính: —Thưa Ðại vương, không nên mạo phạm một sát đế lỵ niên thiếu vì xem thường là tuổi trẻ. Thưa Ðại vương, không nên đùa với con rắn nhỏ vì xem thường là chưa đủ lớn. Thưa Ðại vương, không nên bất cẩn với đốm lửa vì xem thường là nhỏ nhoi. Thưa Ðại vương, không nên xúc phạm tu sĩ trẻ vì xem thường là non nớt. |
||
Ime kho, mahārāja, cattāro daharāti na uññātabbā, daharāti na paribhotabbā’’ti. Thưa Ðại vương, bốn loại trẻ tuổi này không nên khinh thường hay không nên miệt thị vì chúng là trẻ. |
||
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā – Thế Tôn nói như vậy. Nói xong, bậc Thiện Thệ lại nói thêm như sau: |
||
‘‘Khattiyaṃ jātisampannaṃ, abhijātaṃ yasassinaṃ; Daharoti nāvajāneyya, na naṃ paribhave naro. ‘‘Ṭhānañhi so manujindo, rajjaṃ laddhāna khattiyo; So kuddho rājadaṇḍena, tasmiṃ pakkamate bhusaṃ; Tasmā taṃ parivajjeyya, rakkhaṃ jīvitamattano. |
“Sanh dòng Sát-đế-lỵ, Thuộc quý tộc, danh xưng, Chớ khinh thường là trẻ, Chớ miệt thị là nhỏ. “Vị Sát-đế-lỵ ấy, Ðến thời lên ngôi vua Làm chúa tể loài Người, Trị vì cả quốc độ. Vị ấy nếu phẫn nộ, Dùng vương phạt gia hình, Ai bảo tồn mạng mình, Hãy tránh né vị ấy. |
“Chớ xem thường mạo phạm, Vì cho là trẻ tuối, Với hoàng tử dòng vua, Vì khi nối ngai vàng, Với vương quyền thịnh nộ, Sẽ gia hình khốc liệt, Do vậy hãy cố tránh, Bảo vệ mạng sống mình. |
‘‘Gāme vā yadi vā raññe, yattha passe bhujaṅgamaṃ; Daharoti nāvajāneyya, na naṃ paribhave naro. ‘‘Uccāvacehi vaṇṇehi, urago carati tejasī; So āsajja ḍaṃse bālaṃ, naraṃ nāriñca ekadā; Tasmā taṃ parivajjeyya, rakkhaṃ jīvitamattano. |
“Ở làng hay là rừng, Có thấy rắn bò qua, Chớ khinh thường rắn trẻ, Chớ miệt thị rắn nhỏ, Cao thấp hình sai biệt. “Rắn sống đầy nhiệt khí, Bị tấn công, nó cắn, Kẻ ngu cả nam nữ, Ai bảo tồn mạng mình, Hãy tránh né loài rắn. |
“Chớ xem thường đùa giỡn, Vì cho là nhỏ nhoi, Khi thấy con rắn nhỏ, Trong làng hay trong rừng, Với màu sắc đậm nhạt, Có thể độc, hung hăng, Tấn công, cắn kẻ ngu, Bất luận nam hay nữ, Do vậy hãy cố tránh, Bảo vệ mạng sống mình. |
‘‘Pahūtabhakkhaṃ jālinaṃ, pāvakaṃ kaṇhavattaniṃ; Daharoti nāvajāneyya, na naṃ paribhave naro. ‘‘Laddhā hi so upādānaṃ, mahā hutvāna pāvako; So āsajja ḍahe bālaṃ, naraṃ nāriñca ekadā; Tasmā taṃ parivajjeyya, rakkhaṃ jīvitamattano. |
“Lửa cháy đầy khát vọng, Lửa đốt thiêu, đốt cháy, Chớ khinh thường lửa trẻ, Chớ miệt thị lửa nhỏ. “Lửa được đồ bén cháy, Liền cháy to, cháy lớn, Bị tấn công, lửa đốt, Kẻ ngu cả nam nữ, Ai bảo tồn mạng mình, Hãy tránh né lửa cháy. |
“Chớ xem thường bất cẩn, Vì nghĩ đốm lửa tàn, Khi gặp thứ dẫn lửa, Bùng cháy, cháy mãnh liệt, Áp đảo, thiêu kẻ ngu, Bất luận nam hay nữ, Do vậy hãy cố tránh, Bảo vệ mạng sống mình. |
‘‘Vanaṃ yadaggi ḍahati, pāvako kaṇhavattanī; Jāyanti tattha pārohā, ahorattānamaccaye. ‘‘Yañca kho sīlasampanno, bhikkhu ḍahati tejasā; Na tassa puttā pasavo, dāyādā vindare dhanaṃ; Anapaccā adāyādā, tālāvatthū bhavanti te. |
“Khu rừng bị lửa đốt, Lửa đốt thiêu, đốt cháy, Sau nhiều đêm và ngày, Rễ mầm lại mọc lên. “Còn Tỷ-kheo trẻ giới, Nồng cháy với nhiệt tình, Nhưng không con, không cái, Không của cải truyền thừa, Không con, không thừa tự, Như thân cây tala. |
“Chớ xem thường xúc phạm, Vì cho là non nớt, Tu sĩ trẻ thanh tịnh, Nếu rừng bị lửa đốt, Cháy thiêu rụi tất cả, Tuy vậy đêm ngày qua, Chồi tược mọc trở lại, Nhưng ta la đứt ngọn, Thì không thể hồi sinh, Năng lực của giới hạnh, Thiêu đốt kẻ xúc phạm, Khiến người ấy không con, Không vợ, không gia súc, Không hưởng của thừa kế, Cũng không người thừa tự. |
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano; Bhujaṅgamaṃ pāvakañca, khattiyañca yasassinaṃ; Bhikkhuñca sīlasampannaṃ, sammadeva samācare’’ti. |
“Do vậy, người hiền trí, Tự thấy hạnh phúc mình, Ðối với rắn và lửa Danh xưng Sát-đế-lỵ, Vị Tỷ-kheo trì giới, Với bốn vị kể trên, Hãy biết cách cư xử, Chơn chánh và tốt đẹp. |
“Do vậy bậc thiện trí, Vì lợi lạc của mình, Luôn ứng xử thích hợp, Với hoàng tử cao trọng, Rắn độc, ngọn lửa bùng, Và tu sĩ tịnh giới. |
Evaṃ vutte, rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – Khi nghe nói vậy, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: |
||
‘‘abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante! Seyyathāpi bhante, nikkujjitaṃ [nikujjitaṃ (?)] vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya – ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ, bhante, bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. -- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. |
‘‘Khattiyaṃ jātisampannaṃ |
Sát đế lỵ thiện sanh, người xuất thân thuộc giòng dõi vua chúa chính thống. |
abhijātaṃ yasassinaṃ |
địa vị cao, tiếng tăm (nên được hiểu là người ở vị thế có thể nối ngôi). |
Daharoti nāvajāneyya | Không nên xem thường là trẻ tuổi, |
na naṃ paribhave naro | không nên mạo phạm vị ấy. |
‘‘Ṭhānañhi so manujindo | Bởi vị đại nhân ấy, |
rajjaṃ laddhāna khattiyo | có thể thừa kế vương vị. |
So kuddho rājadaṇḍena | Vị ấy thịnh nộ và gia hình với vương quyền, |
tasmiṃ pakkamate bhusaṃ | với mức độ khốc liệt. |
Tasmā taṃ parivajjeyya | Do vậy hãy cố tránh, |
rakkhaṃ jīvitamattano | bảo vệ mạng sống của mình. |
‘‘Gāme vā yadi vā raññe | Dù trong làng hay trong rừng, |
yattha passe bhujaṅgamaṃ | ở đâu thấy con rắn. |
Daharoti nāvajāneyya | Không nên xem thường vì nhỏ bé, |
na naṃ paribhave naro | người không nên đụng tới. |
‘‘Uccāvacehi vaṇṇehi | Nhiều màu sắc đậm nhạt (hay nhiều khoang), |
urago carati tejasī | rắn trườn uốn hung hãn |
So āsajja ḍaṃse bālaṃ | Tấn công, cắn kẻ ngu, |
naraṃ nāriñca ekadā |
bất luận nam hay nữ. |
Tasmā taṃ parivajjeyya | Do vậy hãy cố tránh, |
rakkhaṃ jīvitamattano | bảo vệ mạng sống của mình. |
‘‘Pahūtabhakkhaṃ jālinaṃ | Lửa thiêu rụi mọi thứ, |
pāvakaṃ kaṇhavattaniṃ | Lửa cháy đen đường đi. |
Daharoti nāvajāneyya | Không nên xem thường đốm lửa nhỏ, |
na naṃ paribhave naro | người không nên đụng tới. |
‘‘Laddhā hi so upādānaṃ | Nếu được thứ dẫn lửa, |
mahā hutvāna pāvako | sẽ thành đám cháy lớn. |
So āsajja ḍahe bālaṃ | Áp đảo thiêu kẻ ngu, |
naraṃ nāriñca ekadā | bất luận nam hay nữ. |
Tasmā taṃ parivajjeyya | Do vậy hãy cố tránh, |
rakkhaṃ jīvitamattano | bảo vệ mạng sống của mình. |
‘‘Vanaṃ yadaggi ḍahati | Khi lửa đố cháy rừng, |
pāvako kaṇhavattanī | lửa thiêu đen lối đi. |
Jāyanti tattha pārohā | Chồi tược mọc trở lại, |
Ahorattānamaccay | với đêm ngày trong qua. |
‘‘Yañca kho sīlasampanno, bhikkhu ḍahati tejasā |
Những bậc giới hạnh thanh tịnh, tu sĩ là lửa đốt cháy (người xúc phạm), |
Na tassa puttā pasavo, dāyādā vindare dhanaṃ. |
Khiến người ấy không vợ con, gia súc, người thừa tự không hưởng được của cải. |
Anapaccā adāyādā | Không người nốt dõi, không kẻ kế thừa, |
tālāvatthū bhavanti te | người ấy như cây ta la bị chặt ngọn. |
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso | Do vậy người có trí, |
sampassaṃ atthamattano | biết nghĩ đến sự lợi lạc bản thân. |
Bhujaṅgamaṃ pāvakañca, khattiyañca yasassinaṃ, Bhikkhuñca sīlasampannaṃ. |
Với con rắn độc, ngọn lửa bùng cháy, vị sát đế lỵ cao trọng, và tu sĩ giới đức trang nghiêm (không kể tuổi tác, lớn nhỏ) |
sammadeva samācare’’ti | luôn ứng xử thích hợp. |
Bài kinh nầy không khó hiểu về nghĩa nhưng khó dịch về văn.
Chữ dahara có nghĩa là trẻ, niên thiếu nhưng những từ nầy chỉ có thể áp dụng với con người. Còn với rắn và lửa thì phải hiểu là con rắn còn nhỏ nhưng vẫn có độc, và đốm lửa nhỏ vẫn có khả năng tạo thành đám cháy lớn. Do vậy lời dịch cần linh động để ý và lời được suông tai.
Ý nghĩa phải được dịch dựa trên ý chung của bài kệ chứ không thể lấy theo từng câu và thứ tự trước sau của các câu. Vì dịch sát lời thì lệch ý.
Khi nói lên kệ ngôn nầy Đức Phật đã dùng cách diễn tả rất đẹp theo mỹ từ pháp với những điệp ngữ nên khi dịch thì đưa lên câu đầu hai mệnh đề: Không nên xem thường… vì cho là tuổi trẻ (hay nhỏ nhoi, nhỏ bé). Hai câu kết của mỗi bài kệ cũng trùng điệp.
(Lưu ý: bài kệ thứ tư, nói về tỳ kheo trẻ tuổi, của bản dịch tiếng Việt rất sai với chánh kinh. Xem thêm phần thích văn)
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Hiệu đính và biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
1. Daharasuttaṃ [Mūla]
112. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho rājā pasenadi kosalo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘bhavampi no gotamo anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti paṭijānātī’’ti? ‘‘Yañhi taṃ, mahārāja, sammā vadamāno vadeyya ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti, mameva [mamaṃ (sabbattha)] taṃ sammā vadamāno vadeyya. Ahañhi, mahārāja, anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’’ti.
‘‘Yepi te, bho gotama, samaṇabrāhmaṇā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathidaṃ – pūraṇo kassapo, makkhali gosālo, nigaṇṭho nāṭaputto, sañcayo belaṭṭhaputto, pakudho kaccāyano, ajito kesakambalo; tepi mayā ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti paṭijānāthā’ti puṭṭhā samānā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti na paṭijānanti. Kiṃ pana bhavaṃ gotamo daharo ceva jātiyā navo ca pabbajjāyā’’ti?
‘‘Cattāro kho me, mahārāja, daharāti na uññātabbā, daharāti na paribhotabbā. Katame cattāro? Khattiyo kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. Urago kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. Aggi kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. Bhikkhu, kho, mahārāja, daharoti na uññātabbo, daharoti na paribhotabbo. Ime kho, mahārāja, cattāro daharāti na uññātabbā, daharāti na paribhotabbā’’ti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Khattiyaṃ jātisampannaṃ, abhijātaṃ yasassinaṃ;
Daharoti nāvajāneyya, na naṃ paribhave naro.
‘‘Ṭhānañhi so manujindo, rajjaṃ laddhāna khattiyo;
So kuddho rājadaṇḍena, tasmiṃ pakkamate bhusaṃ;
Tasmā taṃ parivajjeyya, rakkhaṃ jīvitamattano.
‘‘Gāme vā yadi vā raññe, yattha passe bhujaṅgamaṃ;
Daharoti nāvajāneyya, na naṃ paribhave naro.
‘‘Uccāvacehi vaṇṇehi, urago carati tejasī [tejasā (sī. ka.), tejasi (pī. ka.)];
So āsajja ḍaṃse bālaṃ, naraṃ nāriñca ekadā;
Tasmā taṃ parivajjeyya, rakkhaṃ jīvitamattano.
‘‘Pahūtabhakkhaṃ jālinaṃ, pāvakaṃ kaṇhavattaniṃ;
Daharoti nāvajāneyya, na naṃ paribhave naro.
‘‘Laddhā hi so upādānaṃ, mahā hutvāna pāvako;
So āsajja ḍahe [dahe] bālaṃ, naraṃ nāriñca ekadā;
Tasmā taṃ parivajjeyya, rakkhaṃ jīvitamattano.
‘‘Vanaṃ yadaggi ḍahati [dahati (ka.)], pāvako kaṇhavattanī;
Jāyanti tattha pārohā, ahorattānamaccaye.
‘‘Yañca kho sīlasampanno, bhikkhu ḍahati tejasā;
Na tassa puttā pasavo, dāyādā vindare dhanaṃ;
Anapaccā adāyādā, tālāvatthū bhavanti te.
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano;
Bhujaṅgamaṃ pāvakañca, khattiyañca yasassinaṃ;
Bhikkhuñca sīlasampannaṃ, sammadeva samācare’’ti.
Evaṃ vutte, rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante! Seyyathāpi bhante, nikkujjitaṃ [nikujjitaṃ (?)] vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya – ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ, bhante, bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti.
1. Daharasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
112. Kosalasaṃyuttassa paṭhame bhagavatā saddhiṃ sammodīti yathā khamanīyādīni pucchanto bhagavā tena, evaṃ sopi bhagavatā saddhiṃ samappavattamodo ahosi. Sītodakaṃ viya uṇhodakena sammoditaṃ ekībhāvaṃ agamāsi. Yāya ca – ‘‘kacci, bho gotama, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci bhoto ca gotamassa sāvakānañca appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāro’’tiādikāya kathāya sammodi, taṃ pītipāmojjasaṅkhātasammodajananato sammodituṃ yuttabhāvato ca sammodanīyaṃ, atthabyañjanamadhuratāya cirampi kālaṃ sāretuṃ nirantaraṃ pavattetuṃ araharūpato saritabbabhāvato ca sāraṇīyaṃ. Suyyamānasukhato ca sammodanīyaṃ, anussariyamānasukhato sāraṇīyaṃ. Tathā byañjanaparisuddhatāya sammodanīyaṃ, atthaparisuddhatāya sāraṇīyanti evaṃ anekehi pariyāyehi sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā pariyosāpetvā niṭṭhapetvā ito pubbe tathāgatassa adiṭṭhattā guṇāguṇavasena gambhīrabhāvaṃ vā uttānabhāvaṃ vā ajānanto ekamantaṃ nisīdi, ekamantaṃ nisinno kho yaṃ ovaṭṭikasāraṃ katvā āgato lokanissaraṇabhavokkantipañhaṃ satthu sammāsambuddhataṃ pucchituṃ bhavampi notiādimāha.
Tattha bhavampīti pi-kāro sampiṇḍanatthe nipāto, tena ca cha satthāre sampiṇḍeti. Yathā pūraṇādayo ‘‘sammāsambuddhamhā’’ti paṭijānanti, evaṃ bhavampi nu paṭijānātīti attho. Idaṃ pana rājā na attano laddhiyā, loke mahājanena gahitapaṭiññāvasena pucchati. Atha bhagavā buddhasīhanādaṃ nadanto yaṃ hi taṃ mahārājātiādimāha. Tattha ahaṃ hi mahārājāti anuttaraṃ sabbaseṭṭhaṃ sabbaññutaññāṇasaṅkhātaṃ sammāsambodhiṃ ahaṃ abhisambuddhoti attho. Samaṇabrāhmaṇāti pabbajjūpagamanena samaṇā, jātivasena brāhmaṇā. Saṅghinotiādīsu pabbajitasamūhasaṅkhāto saṅgho etesaṃ atthīti saṅghino. Sveva gaṇo etesaṃ atthīti gaṇino. Ācārasikkhāpanavasena tassa gaṇassa ācariyāti gaṇācariyā. Ñātāti paññātā pākaṭā. ‘‘Appicchā santuṭṭhā appicchatāya vatthampi na nivāsentī’’ti evaṃ samuggato yaso etesaṃ atthīti yasassino. Titthakarāti laddhikarā. Sādhusammatāti ‘‘santo sappurisā’’ti evaṃ sammatā. Bahujanassāti assutavato andhabālaputhujjanassa. Pūraṇotiādīni tesaṃ nāmagottāni. Pūraṇoti hi nāmameva. Tathā, makkhalīti. So pana gosālāya jātattā gosāloti vutto. Nāṭaputtoti nāṭassa putto. Belaṭṭhaputtoti belaṭṭhassa putto. Kaccāyanoti pakudhassa gottaṃ. Kesakambalassa dhāraṇato ajito kesakambaloti vutto.
Tepi mayāti kappakolāhalaṃ buddhakolāhalaṃ cakkavattikolāhalanti tīṇi kolāhalāni. Tattha ‘‘vassasatasahassamatthake kappuṭṭhānaṃ bhavissatī’’ti kappakolāhalaṃ nāma hoti – ‘‘ito vassasatasahassamatthake loko vinassissati, mettaṃ mārisā, bhāvetha, karuṇaṃ muditaṃ upekkha’’nti manussappathe devatā ghosentiyo vicaranti. ‘‘Vassasahassamatthake pana buddho uppajjissatī’’ti buddhakolāhalaṃ nāma hoti – ‘‘ito vassasahassamatthake buddho uppajjitvā dhammānudhammapaṭipadaṃ paṭipannena saṅgharatanena parivārito dhammaṃ desento vicarissatī’’ti devatā ugghosenti. ‘‘Vassasatamatthake pana cakkavattī uppajjissatī’’ti cakkavattikolāhalaṃ nāma hoti – ‘‘ito vassasatamatthake sattaratanasampanno catuddīpissaro sahassa puttaparivāro vehāsaṅgamo cakkavattirājā uppajjissatī’’ti devatā ugghosenti.
Imesu tīsu kolāhalesu ime cha satthāro buddhakolāhalaṃ sutvā ācariye payirupāsitvā cintāmāṇivijjādīni uggaṇhitvā – ‘‘mayaṃ buddhamhā’’ti paṭiññaṃ katvā mahājanaparivutā janapadaṃ vicarantā anupubbena sāvatthiyaṃ pattā. Tesaṃ upaṭṭhākā rājānaṃ upasaṅkamitvā, ‘‘mahārāja, pūraṇo kassapo...pe... ajito kesakambalo buddho kira sabbaññū kirā’’ti ārocesuṃ. Rājā ‘‘tumheva ne nimantetvā ānethā’’ti āha. Te gantvā tehi, ‘‘rājā vo nimanteti. Rañño gehe bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti vuttā gantuṃ na ussahanti, punappunaṃ vuccamānā upaṭṭhākānaṃ cittānurakkhaṇatthāya adhivāsetvā sabbe ekatova agamaṃsu. Rājā āsanāni paññāpetvā ‘‘nisīdantū’’ti āha. Nigguṇānaṃ attabhāve rājusmā nāma pharati, te mahārahesu āsanesu nisīdituṃ asakkontā phalakesu ceva bhūmiyaṃ ca nisīdiṃsu.
Rājā ‘‘ettakeneva natthi tesaṃ anto sukkadhammo’’ti vatvā āhāraṃ adatvāva tālato patitaṃ muggarena pothento viya ‘‘tumhe buddhā, na buddhā’’ti pañhaṃ pucchi. Te cintayiṃsu – ‘‘sace ‘buddhamhā’ti vakkhāma, rājā buddhavisaye pañhaṃ pucchitvā kathetuṃ asakkonte ‘tumhe mayaṃ buddhāti mahājanaṃ vañcetvā āhiṇḍathā’ti jivhampi chindāpeyya, aññampi anatthaṃ kareyyā’’ti sakapaṭiññāya eva ‘na mayaṃ buddhā’ti vadiṃsu. Atha ne rājā gehato nikaḍḍhāpesi. Te rājagharato nikkhante upaṭṭhākā pucchiṃsu – ‘‘kiṃ ācariyā rājā tumhe pañhaṃ pucchitvā sakkārasammānaṃ akāsī’’ti? Rājā ‘‘buddhā tumhe’’ti pucchi, tato mayaṃ – ‘‘sace ayaṃ rājā buddhavisaye pañhaṃ kathiyamānaṃ ajānanto amhesu manaṃ padosessati, bahuṃ apuññaṃ pasavissatī’’ti rañño anukampāya ‘na mayaṃ buddhā’ti vadimhā, mayaṃ pana buddhā eva, amhākaṃ buddhabhāvo, udakena dhovitvāpi harituṃ na sakkāti. Iti bahiddhā ‘buddhamhā’ti āhaṃsu – rañño santike ‘na mayaṃ buddhā’ti vadiṃsūti, idaṃ gahetvā rājā evamāha. Tattha kiṃ pana bhavaṃ gotamo daharo ceva jātiyā, navo ca pabbajjāyāti idaṃ attano paṭiññaṃ gahetvā vadati. Tattha kinti paṭikkhepavacanaṃ. Ete jātimahallakā ca cirapabbajitā ca ‘‘buddhamhā’’ti na paṭijānanti, bhavaṃ gotamo jātiyā ca daharo pabbajjāya ca navo kiṃ paṭijānāti? Mā paṭijānāhīti attho.
Na uññātabbāti na avajānitabbā. Na paribhotabbāti na paribhavitabbā. Katame cattāroti kathetukamyatāpucchā. Khattiyoti rājakumāro. Uragoti āsīviso. Aggīti aggiyeva. Bhikkhūti imasmiṃ pana pade desanākusalatāya attānaṃ abbhantaraṃ katvā sīlavantaṃ pabbajitaṃ dasseti. Ettha ca daharaṃ rājakumāraṃ disvā, ukkamitvā maggaṃ adento, pārupanaṃ anapanento, nisinnāsanato anuṭṭhahanto, hatthipiṭṭhādīhi anotaranto, heṭṭhā katvā maññanavasena aññampi evarūpaṃ anācāraṃ karonto khattiyaṃ avajānāti nāma. ‘‘Bhaddako vatāyaṃ rājakumāro, mahākaṇḍo mahodaro – kiṃ nāma yaṃkiñci corūpaddavaṃ vūpasametuṃ yattha katthaci ṭhāne rajjaṃ anusāsituṃ sakkhissatī’’tiādīni vadanto paribhoti nāma. Añjanisalākamattampi āsīvisapotakaṃ kaṇṇādīsu piḷandhanto aṅgulimpi jivhampi ḍaṃsāpento uragaṃ avajānāti nāma. ‘‘Bhaddako vatāyaṃ āsīviso udakadeḍḍubho viya kiṃ nāma kiñcideva ḍaṃsituṃ kassacideva kāye visaṃ pharituṃ sakkhissatī’’tiādīni vadanto paribhoti nāma. Khajjopanakamattampi aggiṃ gahetvā hatthena kīḷanto bhaṇḍukkhalikāya khipanto cūḷāya vā sayanapiṭṭhasāṭakapasibbakādīsu vā ṭhapento aggiṃ avajānāti nāma. ‘‘Bhaddako vatāyaṃ aggi kataraṃ nu kho yāgubhattaṃ pacissati, kataraṃ macchamaṃsaṃ, kassa sītaṃ vinodessatī’’tiādīni vadanto paribhoti nāma. Daharasāmaṇerampi pana disvā ukkamitvā maggaṃ adentoti rājakumāre vuttaṃ anācāraṃ karonto bhikkhuṃ avajānāti nāma. ‘‘Bhaddako vatāyaṃ sāmaṇero mahākaṇṭho mahodaro yaṃkiñci buddhavacanaṃ uggahetuṃ yaṃkiñci araññaṃ ajjhogāhetvā vasituṃ sakkhissati, saṅghattherakāle manāpo bhavissatī’’tiādīni vadanto paribhoti nāma. Taṃ sabbampi na kātabbanti dassento na uññātabbo na paribhotabboti āha.
Etadavocāti etaṃ gāthābandhaṃ avoca. Gāthā ca nāmetā tadatthadīpanāpi honti visesatthadīpanāpi, tatrimā tadatthampi visesatthampi dīpentiyeva. Tattha khattiyanti khettānaṃ adhipatiṃ. Vuttañhetaṃ ‘‘khettānaṃ adhipatīti kho, vāseṭṭha, ‘khattiyo khattiyo’tveva dutiyaṃ akkharaṃ upanibbatta’’nti (dī. ni. 3.131). Jātisampannanti tāyeva khattiyajātiyā jātisampannaṃ. Abhijātanti tīṇi kulāni atikkamitvā jātaṃ.
Ṭhānaṃ hīti kāraṇaṃ vijjati. Manujindoti manussajeṭṭhako. Rājadaṇḍenāti rañño uddhaṭadaṇḍena, so appako nāma na hoti, dasasahassavīsatisahassappamāṇo hotiyeva. Tasmiṃ pakkamate bhusanti tasmiṃ puggale balavaupakkamaṃ upakkamati. Rakkhaṃ jīvitamattanoti attano jīvitaṃ rakkhamāno taṃ khattiyaṃ parivajjeyya na ghaṭṭeyya.
Uccāvacehīti nānāvidhehi. Vaṇṇehīti saṇṭhānehi. Yena yena hi vaṇṇena caranto gocaraṃ labhati, yadi sappavaṇṇena, yadi deḍḍubhavaṇṇena, yadi dhamanivaṇṇena, antamaso kalandakavaṇṇenapi caratiyeva. Āsajjāti patvā. Bālanti yena bālena ghaṭṭito, taṃ bālaṃ naraṃ vā nāriṃ vā ḍaṃseyya.
Pahūtabhakkhanti bahubhakkhaṃ. Aggissa hi abhakkhaṃ nāma natthi. Jālinanti jālavantaṃ. Pāvakanti aggiṃ. Pāvagantipi pāṭho. Kaṇhavattaninti vattanīti maggo, agginā gatamaggo kaṇho hoti kāḷako, tasmā ‘‘kaṇhavattanī’’ti vuccati.
Mahā hutvānāti mahanto hutvā. Aggi hi ekadā yāvabrahmalokappamāṇopi hoti. Jāyanti tattha pārohāti tattha agginā daḍḍhavane pārohā jāyanti. Pārohāti tiṇarukkhādayo vuccanti. Te hi agginā daḍḍhaṭṭhāne mūlamattepi avasiṭṭhe pādato rohanti jāyanti vaḍḍhanti, tasmā ‘‘pārohā’’ti vuccanti. Punarohanatthena vā pārohā. Ahorattānamaccayeti rattindivānaṃ atikkame. Nidāghepi deve vuṭṭhamatte jāyanti.
Bhikkhu ḍahati tejasāti ettha akkosantaṃ paccakkosanto bhaṇḍantaṃ paṭibhaṇḍanto paharantaṃ paṭipaharanto bhikkhu nāma kiñci bhikkhutejasā ḍahituṃ na sakkoti. Yo pana akkosantaṃ na paccakkosati, bhaṇḍantaṃ na paṭibhaṇḍati. Paharantaṃ na paṭipaharati, tasmiṃ vippaṭipanno tassa sīlatejena ḍayhati. Tenevetaṃ vuttaṃ. Na tassa puttā pasavoti tassa puttadhītaropi gomahiṃsakukkuṭasūkarādayo pasavopi na bhavanti, vinassantīti attho. Dāyādā vindare dhananti tassa dāyādāpi dhanaṃ na vindanti. Tālāvatthū bhavanti teti te bhikkhutejasā daḍḍhā vatthumattāvasiṭṭho matthakacchinnatālo viya bhavanti, puttadhītādivasena na vaḍḍhantīti attho.
Tasmāti yasmā samaṇatejena daḍḍhā matthakacchinnatālo viya aviruḷhidhammā bhavanti, tasmā. Sammadeva samācareti sammā samācareyya. Sammā samācarantena pana kiṃ kātabbanti? Khattiyaṃ tāva nissāya laddhabbaṃ gāmanigamayānavāhanādiānisaṃsaṃ, uragaṃ nissāya tassa kīḷāpanena laddhabbaṃ vatthahiraññasuvaṇṇādiānisaṃsaṃ aggiṃ nissāya tassānubhāvena pattabbaṃ yāgubhattapacanasītavinodanādiānisaṃsaṃ, bhikkhuṃ nissāya tassa vasena pattabbaṃ asutasavanasutapariyodapana-saggamaggādhigamādiānisaṃsaṃ sampassamānena ‘‘ete nissāya pubbe vuttappakāro ādīnavo atthi. Kiṃ imehī’’ti? Na sabbaso pahātabbā. Issariyatthikena pana vuttappakāraṃ avajānanañca paribhavanañca akatvā pubbuṭṭhāyipacchānipātitādīhi upāyehi khattiyakumāro tosetabbo, evaṃ tato issariyaṃ adhigamissati. Ahituṇḍikena urage vissāsaṃ akatvā nāgavijjaṃ parivattetvā ajapadena daṇḍena gīvāya gahetvā visaharena mūlena dāṭhā dhovitvā peḷāyaṃ pakkhipitvā kīḷāpentena caritabbaṃ. Evaṃ taṃ nissāya ghāsacchādanādīni labhissati. Yāgupacanādīni kattukāmena aggiṃ vissāsena bhaṇḍukkhalikādīsu apakkhipitvā hatthehi anāmasantena gomayacuṇṇādīhi jāletvā yāgupacanādīni kattabbāni, evaṃ taṃ nissāya ānisaṃsaṃ labhissati. Asutasavanādīni patthayantenapi bhikkhuṃ ativissāsena vejjakammanavakammādīsu ayojetvā catūhi paccayehi sakkaccaṃ upaṭṭhātabbo, evaṃ taṃ nissāya asutapubbaṃ buddhavacanaṃ asutapubbaṃ pañhāvinicchayaṃ diṭṭhadhammikasamparāyikaṃ atthaṃ tisso kulasampattiyo cha kāmasaggāni nava ca brahmaloke patvā amatamahānibbānadassanampi labhissatīti imamatthaṃ sandhāya sammadeva samācareti āha.
Etadavocāti dhammadesanaṃ sutvā pasanno pasādaṃ āvikaronto etaṃ ‘‘abhikkanta’’ntiādivacanaṃ avoca. Tattha abhikkantanti abhikantaṃ atiiṭṭhaṃ atimanāpaṃ, atisundaranti attho. Ettha ekena abhikkantasaddena desanaṃ thometi ‘‘abhikkantaṃ, bhante, yadidaṃ bhagavato dhammadesanā’’ti. Ekena attano pasādaṃ ‘‘abhikkantaṃ, bhante, yadidaṃ bhagavato dhammadesanaṃ āgamma mama pasādo’’ti.
Tato paraṃ catūhi upamāhi desanaṃyeva thometi. Tattha nikkujjitanti adhomukhaṭhapitaṃ, heṭṭhāmukhajātaṃ vā. Ukkujjeyyāti uparimukhaṃ kareyya. Paṭicchannanti tiṇapaṇṇādichāditaṃ. Vivareyyāti ugghāṭeyya. Mūḷhassāti disāmūḷhassa. Maggaṃ ācikkheyyāti hatthe gahetvā ‘‘esa maggo’’ti vadeyya. Andhakāreti kāḷapakkhacātuddasī aḍḍharattaghanavanasaṇḍa meghapaṭalehi caturaṅge tame. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā koci nikkujjitaṃ ukkujjeyya, evaṃ saddhammavimukhaṃ asaddhamme patitaṃ maṃ asaddhammā vuṭṭhāpentena, yathā paṭicchannaṃ vivareyya, evaṃ kassapassa bhagavato sāsanantaradhānā pabhuti micchādiṭṭhigahanapaṭicchannaṃ sāsanaṃ vivarantena, yathā mūḷhassa maggaṃ ācikkheyya, evaṃ kummaggamicchāmaggapaṭipannassa me saggamokkhamaggaṃ āvikarontena, yathā andhakāre telapajjotaṃ dhāreyya, evaṃ mohandhakāre nimuggassa me buddhādiratanarūpāni apassato tappaṭicchādakamohandhakāraviddhaṃsakadesanāpajjotaṃ dhārentena mayhaṃ bhagavatā etehi pariyāyehi pakāsitattā anekapariyāyena dhammo pakāsitoti.
Evaṃ desanaṃ thometvā imāya desanāya ratanattaye pasannacitto pasannākāraṃ karonto esāhantiādimāha. Tattha esāhanti eso ahaṃ. Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañcāti bhagavantañca dhammañca bhikkhusaṅghañcāti imaṃ ratanattayaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Upāsakaṃ maṃ, bhante, bhagavā dhāretūti maṃ bhagavā ‘upāsako aya’nti evaṃ dhāretu, jānātūti attho. Ajjataggeti ajjataṃ ādiṃ katvā. Ajjadaggeti vā pāṭho, da-kāro padasandhikaro, ajja aggaṃ katvāti attho. Pāṇupetanti pāṇehi upetaṃ yāva me jīvitaṃ pavattati, tāva upetaṃ anaññasatthukaṃ tīhi saraṇagamanehi saraṇaṃ gataṃ upāsakaṃ kappiyakārakaṃ maṃ bhagavā dhāretūti ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana sumaṅgalavilāsiniyā dīghanikāyaṭṭhakathāya sāmaññaphalasutte sabbākārena vuttoti. Paṭhamaṃ.