Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || NGÃ RẼ CỦA CHỈ VÀ QUÁN - Kinh Assaji (Assajisuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || NGÃ RẼ CỦA CHỈ VÀ QUÁN - Kinh Assaji (Assajisuttaṃ)

Sunday, 21/07/2024, 07:56 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 20.7.2024

NGÃ RẼ CỦA CHỈ VÀ QUÁN

Kinh Assaji (Assajisuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm Trưởng Lão (S,iii,88)

Con đường tu tập nội tại trong Phật giáo bao gồm chỉ và quán. Thiền chỉ là sự huân tập khả năng tập trung. Thiền quán huân tu trí tuệ như nhiên, chấp nhận và an hoà với tất cả những gì xảy ra. Cả hai đều cần và bổ túc cho nhau. Thiền chỉ vốn được biết trong và ngoài giáo pháp. Riêng thiền quán chỉ có trong Phật Giáo và là tinh hoa của Phật Pháp. Mặc dù cả hai đều được tu tập, nhưng thái độ của hành giả khi tu chỉ và quán rất khác biệt: một là chỉ tập chú vào trọng điểm mình theo đuổi; hai là tỉnh táo ghi nhận tất cả và không nắm giữ điều gì. Tâm thái của hành giả tu tuệ quán là sự thanh thản nhìn những gì đến đi trên dòng sông.

Kinh văn

Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena āyasmā assaji kassapakārāme viharati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. Atha kho āyasmā assaji upaṭṭhāke āmantesi:

“etha tumhe, āvuso, yena bhagavā tenupasaṅkamatha; upasaṅkamitvā mama vacanena bhagavato pāde sirasā vandatha: ‘assaji, bhante, bhikkhu ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. So bhagavato pāde sirasā vandatī’ti. Evañca vadetha: ‘sādhu kira, bhante, bhagavā yena assaji bhikkhu tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’”ti.

Một thuở, Đức Thế Tôn ngự ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ khu vực cho sóc ăn.

Lúc ấy, Tôn giả Assaji trú tại nhà một thợ gốm, đang bị bệnh nặng, đau đớn.

Rồi Tôn giả Assaji gọi các người thị giả:

—Hãy đi Chư Hiền giả! Hãy đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, thay mặt tôi cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Assaji bị bệnh nặng, đau đớn. Assaji cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ‘Thật tốt lành thay, Đức Thế Tôn vì lòng lân mẫn đi đến tỳ khưu Assaji”.

“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato assajissa paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ: “assaji, bhante, bhikkhu ābādhiko …pe… sādhu kira, bhante, bhagavā yena assaji bhikkhu tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”ti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.

—Thưa vâng, Hiền giả.

Chư tỳ khưu ấy trả lời Tôn giả Assaji rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên và bạch rằng:

—“Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Assaji bị bệnh nặng, đau đớn. (Assaji) cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ‘Thật tốt lành thay, Đức Thế Tôn vì lòng lân mẫn đi đến tỳ khưu Assaji.’”

Thế Tôn nhận lời bằng sự im lặng.

Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā assaji tenupasaṅkami. Addasā kho āyasmā assaji bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna mañcake samadhosi.

Atha kho bhagavā āyasmantaṃ assajiṃ etadavoca: “alaṃ, assaji, mā tvaṃ mañcake samadhosi. Santimāni āsanāni paññattāni, tatthāhaṃ nisīdissāmī”ti.

Rồi Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát và y (kép), đi đến Tỷ-kheo Assaji.

Tôn giả Assaji trên giường thấy Thế Tôn từ xa đi đến liền ráng gượng ngồi dậy.

Thế Tôn nói với Tôn giả Assaji:

—Thôi được rồi, Assaji, Thầy đừng cố gượng ngồi dậy. Có chỗ ngồi đã soạn sẵn, Ta sẽ ngồi trên chỗ ngồi ấy.

Nisīdi bhagavā paññatte āsane. Nisajja kho bhagavā āyasmantaṃ assajiṃ etadavoca: “kacci te, assaji, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ …pe… paṭikkamosānaṃ paññāyati no abhikkamo”ti?

“Na me, bhante, khamanīyaṃ …pe… abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamo”ti.

Rồi Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.

Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Assaji:

—Ta mong Thầy có kham nhẫn, mong Thầy có thể khá hơn. Mong sự đau nhức của thầy được thuyên giảm, không tăng thêm.

—Bạch Đức Thế Tôn, con không có thể kham nhẫn! Con không thấy khá hơn! Sự đau nhức không thuyên giảm mà tăng thêm.

“Kacci te, assaji, na kiñci kukkuccaṃ na koci vippaṭisāro”ti?

“Taggha me, bhante, anappakaṃ kukkuccaṃ anappako vippaṭisāro”ti.

“Kacci pana taṃ, assaji, attā sīlato na upavadatī”ti?

“Na kho maṃ, bhante, attā sīlato upavadatī”ti.

—Này Assaji, Thầy có gì hối hận và tiếc nuối không?

—Bạch Thế Tôn, thật sự con có nhiều hối hận và tiếc nuối!

—Này Assaji, ta mong Thầy không có tự trách về giới luật.

—Bạch Thế Tôn, con không có gì tự trách mình về giới luật.

“No ce kira taṃ, assaji, attā sīlato upavadati, atha kiñca te kukkuccaṃ ko ca vippaṭisāro”ti?

“Pubbe khvāhaṃ, bhante, gelaññe passambhetvā passambhetvā kāyasaṅkhāre viharāmi, sohaṃ samādhiṃ nappaṭilabhāmi. Tassa mayhaṃ, bhante, taṃ samādhiṃ appaṭilabhato evaṃ hoti: ‘no cassāhaṃ parihāyāmī’”ti.

—Này Assaji, nếu Thầy không có điều gì tự trách về giới luật, vậy thì hối hận và tiếc nuối về điều gì?

—Bạch Thế Tôn, trước đây khi con bệnh con gìn giữ sự an tịnh thân hành nhưng bây giờ không thể định tâm được. Khi con không tập trung được con tự nghĩ: “Mình không để thối thất được”.

“Ye te, assaji, samaṇabrāhmaṇā samādhisārakā samādhisāmaññā tesaṃ taṃ samādhiṃ appaṭilabhataṃ evaṃ hoti: ‘no cassu mayaṃ parihāyāmā’ti.

—Này Assaji, những sa môn hay bà la môn xem thiền định là cốt lõi và xem thiền định là căn bản khi không chứng được thiền định đều nghĩ rằng: “Mình không để thối thất được”.

Taṃ kiṃ maññasi, assaji, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Aniccaṃ, bhante” …pe…

viññāṇaṃ …pe…

“tasmātiha …pe… evaṃ passaṃ …pe… nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti.

—Này Assaji, Thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

—Là vô thường, bạch Thế Tôn.

…Do vậy, ở đây … thấy vậy … ” … không còn trở lui trạng thái này nữa”. Vị ấy biết rõ như vậy.

So sukhañce vedanaṃ vedayati, sā ‘aniccā’ti pajānāti. ‘Anajjhositā’ti pajānāti. ‘Anabhinanditā’ti pajānāti. Dukkhañce vedanaṃ vedayati, sā ‘aniccā’ti pajānāti. ‘Anajjhositā’ti pajānāti. ‘Anabhinanditā’ti pajānāti. Adukkhamasukhañce vedanaṃ vedayati, sā ‘aniccā’ti pajānāti …pe… ‘anabhinanditā’ti pajānāti. So sukhañce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ vedayati; dukkhañce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ vedayati; adukkhamasukhañce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ vedayati. So kāyapariyantikañce vedanaṃ vedayamāno ‘kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti. Jīvitapariyantikañce vedanaṃ vedayamāno ‘jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti. ‘Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissantī’ti pajānāti.

Khi cảm giác lạc thọ, vị ấy biết rõ: “Là vô thường”; vị ấy biết rõ: “Là không nên nắm giữ”; vị ấy biết rõ: “Là không nên thích thú”. Khi cảm giác khổ thọ, vị ấy biết rõ: “Là vô thường”; vị ấy biết rõ: “Là không nên nắm giữ”; vị ấy biết rõ: “Là không nên thích thú”. Khi cảm giác không khổ không lạc, vị ấy biết rõ: “Là vô thường”; vị ấy biết rõ: “Là không nên nắm giữ”; vị ấy biết rõ: “Là không nên thích thú”.

Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy cảm thọ không vướng mắc. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy cảm thọ không vướng mắc. Nếu vị ấy cảm giác không khổ không lạc, vị ấy cảm thọ không vướng mắc.

Nếu vị ấy cảm thọ một cảm thọ cận tử của thân, vị ấy biết rõ: “Ta đang cảm giác một cảm thọ cận tử của thân”. Nếu vị ấy cảm giác một cảm thọ cận tử của mạng sống, vị ấy biết rõ: “Ta đang cảm giác một cảm thọ cận tử của mạng sống”. Vị ấy biết rõ rằng: “Khi thân hoại mạng chung cho đến khi sinh mạng đi đến kết thúc, tất cả những gì vị ấy cảm thọ không có gì thích thú, (và do vậy) sẽ trở thành trạng thái thanh lương!”

Seyyathāpi, assaji, telañca paṭicca, vaṭṭiñca paṭicca, telappadīpo jhāyeyya; tasseva telassa ca vaṭṭiyā ca pariyādānā anāhāro nibbāyeyya.

Evameva kho, assaji, bhikkhu kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti. Jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno ‘jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti. ‘Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissantī’ti pajānātī”ti.

Này Assaji, ví như một ngọn đèn được cháy sáng do tim và dầu. Khi tim lụn, dầu cạn thì đèn tắt. Hành giả cảm thọ một cảm thọ cận tử của thân, vị ấy biết rõ: “Ta đang cảm giác một cảm thọ cận tử của thân”. Nếu vị ấy cảm giác một cảm thọ cận tử của mạng sống, vị ấy biết rõ: “Ta đang cảm giác một cảm thọ cận tử của mạng sống”. Vị ấy biết rõ rằng: “Khi thân hoại mạng chung cho đến khi sinh mạng đi đến kết thúc, tất cả những gì vị ấy cảm thọ không có gì thích thú, (và do vậy) sẽ trở thành trạng thái thanh lương!”

 

Chú Thích

Kassapakārāma là một khu vườn thiền do một đàn tín tạo dựng để cúng dường Tôn giả Mahākassapa.

Về nhân vật được đề cập trong bài kinh này, Tôn giả Assaji, có thể có hai vị Assaji khác nhau nhưng danh tánh và duyên sự thì gần giống. Vị Assaji đầu tiên là một trong năm vị thuộc “Nhóm Năm Thầy Kiều Trần Như”, vốn là vị đắc sơ quả cuối cùng trong năm vị khi nghe Đức Phật chuyển pháp luân và cả năm vị đều chứng A la hán khi nghe kinh Vô Ngã Tướng (Anattanalakkhanasutta). Chính vị này, chỉ đắc tuệ giác a la hán nhưng không tu thiền chỉ, nên khi bệnh đau đớn nghĩ rằng nếu trước kia tu thiền chỉ thì có thể áp chế cơn đau và được Đức Phật dạy pháp an trú vào không tánh.

Vị Assaji thứ hai, là vị được đề cập trong bài kinh này thì ngược lại: tu tập thiền chỉ và chứng tứ thiền nhưng chưa chứng đạo quả. Thân bệnh đau đớn khiến vị này hoại thiền và cố gắng luyện thiền để khôi phục định lực vì quyết tâm “mình không thể thối thất”, Đức Phật đã chỉ phép quán theo tứ niệm xứ. Sớ Giải ghi rằng sau khi được khai thị vị này đắc quả A la hán.

Điều đáng nói là Từ Điển Danh Từ Riêng Pāli -"Dictionary of Pali Names" của G P Malalasekera lại xem hai vị này là một.

Theo Sớ Giải, thì mặc dù chữ kāyasaṅkhāra – thân hành - chỉ cho phép niệm hơi thở nhưng ở đây tôn giả Assaji sử dụng hơi thở để tu tập thiền chỉ (samatha).

Theo Sớ giải, thì khi Tôn giả nghĩ “Ta không để thối thất - no cassāhaṃ parihāyāmi” là sự lui sụt trong giáo pháp chứ không phải trong riêng thiền chứng.

Theo Sớ giải, thì khi Đức Phật dạy: “Này Assaji, những sa môn hay bà la môn xem thiền định là cốt lõi và xem thiền định là căn bản khi không chứng được thiền định đều nghĩ rằng “Mình không để thối thất được” thì Ngài muốn nói: Trong giáo pháp này thiền chỉ không phải là cốt lõi mà chính là thiền quán và đạo, quả (Samādhisārakā samādhisāmaññā ti samādhim yeva sārañ ca sāmaññañ ca maññanti).

Phương pháp quán chiếu khi trải qua tất cả cảm thọ dù khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ đều chỉ ghi nhận mà không nắm giữ và thích thú là bài học rất căn bản của người hành thiền quán tứ niệm xứ. Đây là sự khác biệt then chốt giữa chỉ và quán. Trong thiền chỉ, thì hành giả phải tập trung gìn giữ và khai triển trạng thái tốt nhất được trau dồi, trong lúc ở thiền quán thì chỉ ghi nhận bằng chánh niệm đối với tất cả những gì xảy ra mà không lựa chọn, không chấp giữ.

Trong duyên sự của kinh này, đặc biệt nêu rõ đối với cái nhìn của thiền quán không có gì tiếc nuối và ân hận, vì tất cả chỉ là những gì đến đi trong dòng sanh diệt.

Cụm từ “sẽ trở thành thanh lương hay mát mẻ, không nhiệt não – sītībhavissantī” có thể chỉ cho cả hai trạng thái một là an tịnh nhất thời đối với cảm thọ; hai là chứng đắc niết bàn tịch tịnh.

Sớ giải cũng chú thích dụ ngôn cây đèn với tim lụn, dầu cạn chỉ cho cả hai sự chấm dứt nhiệt não của thân bệnh và điểm kết thúc thân sanh tử.

Theo Sớ giải, thì huấn thị cô đọng của Đức Phật bao gồm cả pháp học, pháp hành và pháp thành (tiparivaṭṭaṃ dhammadesanaṃ).

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Sớ Giải Kinh Assaji

88. chaṭṭhe kassapakārāmeti kassapaseṭṭhinā kārite ārāme. kāyasaṅkhāreti assāsapassāse. so hi te catutthajjhānena passambhitvā passambhitvā vihāsi. evaṃ hotīti idāni taṃ samādhiṃ appaṭilabhantassa evaṃ hoti. no cassāhaṃ parihāyāmīti kacci nu kho ahaṃ sāsanato na parihāyāmi? tassa kira ābādhadosena appitappitā samāpatti parihāyi, tasmā evaṃ cintesi. samādhisārakā samādhisāmaññāti samādhiṃyeva sārañca sāmaññañca maññanti. mayhaṃ pana sāsane na etaṃ sāraṃ, vipassanāmaggaphalāni sāraṃ. so tvaṃ samādhito parihāyanto kasmā cintesi “sāsanato parihāyāmī”ti. evaṃ theraṃ assāsetvā idānissa tiparivaṭṭaṃ dhammadesanaṃ ārabhanto taṃ kiṃ maññasītiādimāha. athassa tiparivaṭṭadesanāvasāne arahattaṃ pattassa satatavihāraṃ dassento so sukhaṃ ce vedanaṃ vedayatītiādimāha. tattha anabhinanditāti pajānātīti sukhavedanāya tāva abhinandanā hotu, dukkhavedanāya kathaṃ hotīti? dukkhaṃ patvā sukhaṃ pattheti, yadaggena sukhaṃ pattheti, tadaggena dukkhaṃ patthetiyeva. sukhavipariṇāmena hi dukkhaṃ āgatameva hotīti evaṃ dukkhe abhinandanā veditabbā. sesaṃ pubbe vuttanayamevāti. chaṭṭhaṃ.