Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - MA NHÁT PHẬT - Kinh Hình Tướng Voi Chúa (Hatthirājavaṇṇasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - MA NHÁT PHẬT - Kinh Hình Tướng Voi Chúa (Hatthirājavaṇṇasuttaṃ)

Wednesday, 09/02/2022, 18:04 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 9.2.2022


MA NHÁT PHẬT

Kinh Hình Tướng Voi Chúa (Hatthirājavaṇṇasuttaṃ)

CHƯƠNG IV. TƯƠNG ƯNG ÁC MA, PHẨM THỨ NHẤT (S.i, 103)

Sợ hãi có gốc rễ từ ngã chấp. Những bậc đoạn tận phiền não không bao giờ bị rúng động bởi kinh sợ. Các Ngài tự tại giữa đêm tối dày đặc trong núi rừng sâu thẳm. Ác ma thường dùng trăm mưu ngàn kế để khiến Phật và các thánh đệ tử giao động với cả hai hình tướng quyến rũ thật đẹp hay kinh khiếp đáng sợ. Thực tế là một người không nhiễm cái đẹp thì cũng chẳng sợ hãi điều kinh khiếp. Đức Phật không chỉ biết Ác ma trong một thời khắc mà Ngài còn quá biết xuyên suốt qua cuộc trầm luân diệu vợi. Ma nhát Phật, Phật biết rõ ma. Vì vậy ma biến mất.


MA NHÁT PHẬT - Kinh Hình Tướng Voi Chúa (Hatthirājavaṇṇasuttaṃ)

Evaṃ me sutaṃ –

Tôi được nghe như vầy:

ekaṃ samayaṃ bhagavā uruvelāyaṃ viharati najjā nerañjarāya tīre ajapālanigrodhamūle paṭhamābhisambuddho. Tena kho pana samayena bhagavā rattandhakāratimisāyaṃ abbhokāse nisinno hoti, devo ca ekamekaṃ phusāyati.

Thuở ấy Đức Thế Tôn, sau khi vừa giác ngộ, ở gần Uruvelā, dưới cội cây ajapālanigrodha bên dòng sông Nerañjara. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi trong bóng đêm ngoài trời và trời đang nhỏ mưa từng hạt.

Atha kho māro pāpimā bhagavato bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo mahantaṃ hatthirājavaṇṇaṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkami.

Seyyathāpi nāma mahāariṭṭhako maṇi, evamassa sīsaṃ hoti. Seyyathāpi nāma suddhaṃ rūpiyaṃ, evamassa dantā honti. Seyyathāpi nāma mahatī naṅgalīsā [naṅgalasīsā (pī. ka.)], evamassa soṇḍo hoti.

Bấy giờ Ác ma muốn khiến Đức Thế Tôn sợ hãi, hoảng hốt, kinh khiếp nên hoá thành con voi chúa khổng lồ tiến đến Ngài. Con voi với hình dạng cái đầu lớn màu như đồng đen; vòi như bạc trắng; ngà như lưỡi cày to lớn.

Atha kho bhagavā ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Lúc ấy Đức Thế Tôn nhận biết “Đây là Ác ma”, Ngài nói lên kệ ngôn:

‘‘Saṃsaraṃ dīghamaddhānaṃ,

vaṇṇaṃ katvā subhāsubhaṃ;

Alaṃ te tena pāpima,

nihato tvamasi antakā’’ti.

Trong luân hồi diệu vợi

Biến thiên hình vạn trạng

Quá đủ, hỡi Ác ma!

Bại rồi, Kẻ Hủy Diệt!

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ bhagavā, jānāti maṃ sugato’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta" nên buồn và thất vọng liền biến mất tại chỗ ấy.


‘‘Saṃsaraṃ dīghamaddhānaṃ luân hồi dài vô tận
vaṇṇaṃ katvā subhāsubhaṃ đã tạo bao hình tướng đẹp xấu
Alaṃ te tena pāpima Hỡi ác ma! Đã đủ rồi
nihato tvamasi antakā’’ti Người đã thất bại, hỡi Kẻ Hủy Diệt

Theo Sớ giải thì trong cuộc luân hồi diệu vợi (saṃsaraṃ dīghaṃ addhānaṃ) không có hình tướng nào mà Ác Ma không biến thánh để làm kinh hãi Đức Thế Tôn

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

2. Hatthirājavaṇṇasuttaṃ [Mūla]

138. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā uruvelāyaṃ viharati najjā nerañjarāya tīre ajapālanigrodhamūle paṭhamābhisambuddho. Tena kho pana samayena bhagavā rattandhakāratimisāyaṃ abbhokāse nisinno hoti, devo ca ekamekaṃ phusāyati. Atha kho māro pāpimā bhagavato bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo mahantaṃ hatthirājavaṇṇaṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkami. Seyyathāpi nāma mahāariṭṭhako maṇi, evamassa sīsaṃ hoti. Seyyathāpi nāma suddhaṃ rūpiyaṃ, evamassa dantā honti. Seyyathāpi nāma mahatī naṅgalīsā [naṅgalasīsā (pī. ka.)], evamassa soṇḍo hoti. Atha kho bhagavā ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Saṃsaraṃ dīghamaddhānaṃ, vaṇṇaṃ katvā subhāsubhaṃ;

Alaṃ te tena pāpima, nihato tvamasi antakā’’ti.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ bhagavā, jānāti maṃ sugato’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

2. Hatthirājavaṇṇasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

138. Dutiye rattandhakāratimisāyanti rattiṃ andhabhāvakārake mahātame caturaṅge tamasi. Abbhokāse nisinno hotīti gandhakuṭito nikkhamitvā caṅkamanakoṭiyaṃ pāsāṇaphalake mahācīvaraṃ sīse ṭhapetvā padhānaṃ pariggaṇhamāno nisinno hoti.

Nanu ca tathāgatassa abhāvito vā maggo, appahīnā vā kilesā, appaṭividdhaṃ vā akuppaṃ, asacchikato vā nirodho natthi, kasmā evamakāsīti? Anāgate kulaputtānaṃ aṅkusatthaṃ. ‘‘Anāgate hi kulaputtā mayā gatamaggaṃ āvajjitvā abbhokāsavāsaṃ vasitabbaṃ maññamānā padhānakammaṃ karissantī’’ti sampassamāno satthā evamakāsi. Mahāti mahanto. Ariṭṭhakoti kāḷako. Maṇīti pāsāṇo. Evamassa sīsaṃ hotīti evarūpaṃ tassa kāḷavaṇṇaṃ kūṭāgārappamāṇaṃ mahāpāsāṇasadisaṃ sīsaṃ hoti.

Subhāsubhanti dīghamaddhānaṃ saṃsaranto sundarāsundaraṃ vaṇṇaṃ katvā āgatosīti vadati. Atha vā saṃsaranti saṃsaranto āgacchanto. Dīghamaddhānanti vasavattiṭṭhānato yāva uruvelāya dīghamaggaṃ, pure bodhāya vā chabbassāni dukkarakārikasamayasaṅkhātaṃ dīghakālaṃ. Vaṇṇaṃ katvā subhāsubhanti sundarañca asundarañca nānappakāraṃ vaṇṇaṃ katvā anekavāraṃ mama santikaṃ āgatosīti attho. So kira vaṇṇo nāma natthi, yena vaṇṇena māro vibhiṃsakatthāya bhagavato santikaṃ na āgatapubbo. Tena taṃ bhagavā evamāha. Alaṃ te tenāti alaṃ tuyhaṃ etena māravibhiṃsākāradassanabyāpārena. Dutiyaṃ.