- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bāi học ngāy 14.1.2025
LỬA THIÊNG VÀ LỬA ĐỘC HẠI
Kinh Bốc Cháy (ādittasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Tất Cả (SN.35.28)
Tín ngưỡng thờ lửa hay Bái Hoả Giáo thịnh hành nhiều nơi trên thế giới. Đức Phật dùng hình ảnh năng lực thiêu đốt của lửa khai thị cho một nhóm đạo sĩ chuyên thờ lửa. Từ tín ngưỡng dân gian chuyển thành tuệ giác cắt đứt kiết sử là cơ duyên nhiệm mầu. Rất nhiều sự việc trong đời giữa cái sáng và tối, tốt và xấu, bờ mê và bến giác chỉ cách nhau đường tơ kẻ tóc. Nhận ra sự thiêu đối của phiền não, để thiêu rụi dây kiết phược là một điều khó thể nghĩ bàn trong cái nhìn thường thức.
Kinh văn
28. ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati gayāsīse saddhiṃ bhikkhusahassena. tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi — “sabbaṃ, bhikkhave, ādittaṃ. kiñca, bhikkhave, sabbaṃ ādittaṃ? cakkhu {cakkhuṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)}, bhikkhave, ādittaṃ, rūpā ādittā, cakkhuviññāṇaṃ ādittaṃ, cakkhusamphasso āditto. yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi ādittaṃ. kena ādittaṃ? ‘rāgagginā, dosagginā, mohagginā ādittaṃ, jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittan’ti vadāmi ... pe ... jivhā ādittā, rasā ādittā, jivhāviññāṇaṃ ādittaṃ, jivhāsamphasso āditto. yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi ādittaṃ. kena ādittaṃ? ‘rāgagginā, dosagginā, mohagginā ādittaṃ, jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittan’ti vadāmi ... pe ... mano āditto, dhammā ādittā, manoviññāṇaṃ ādittaṃ, manosamphasso āditto. yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi ādittaṃ. kena ādittaṃ? ‘rāgagginā, dosagginā, mohagginā ādittaṃ, jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ādittan’ti vadāmi. evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, rūpesupi nibbindati, cakkhuviññāṇepi nibbindati, cakkhusamphassepi nibbindati, yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati ... pe ... yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati. nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti. idamavoca bhagavā. attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinanduṃ. imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne tassa bhikkhusahassassa anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti. chaṭṭhaṃ.
Một thuở, Đức Thế Tôn ngự ở Gayā, tại Gayāsīse cùng với một ngàn vị tỳ khưu. Tại đó, Đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho các tỳ-kheo như sau:
“Này các tỳ-kheo, tất cả đang bốc cháy. Và này các tỳ-kheo, cái gì là tất cả đang bốc cháy? Mắt đang cháy, sắc đang cháy, nhãn thức đang cháy, nhãn xúc đang cháy và bất cứ cảm thọ nào khởi lên do nhãn xúc làm duyên—dù là lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ—cũng đang cháy. Cháy với gì? Cháy với lửa tham, với lửa sân, với lửa si; cháy với sanh, lão và tử; với sầu, bi, khổ, ưu, ai. Ta nói vậy.
Tai đang cháy… Mũi đang cháy… Lưỡi đang cháy… Thân đang cháy… Ý đang cháy… và bất cứ cảm thọ nào khởi lên do ý xúc làm duyên—dù là lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ—cũng đang cháy. Cháy với gì? Cháy với lửa tham, với lửa sân, với lửa si; cháy với sanh, lão và tử; với sầu, bi, khổ, ưu và ai. Ta nói vậy.
Thấy rõ như vậy, này các tỳ-kheo, vị Thánh đệ tử có học hiểu sanh khởi sự nhàm chán đối với mắt, đối với sắc, đối với nhãn thức, đối với nhãn xúc, đối với bất cứ cảm thọ nào khởi lên do nhãn xúc làm duyên—dù là lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; sanh khởi sự nhàm chán đối với tai… đối với ý… đối với bất cứ cảm thọ nào khởi lên do ý xúc làm duyên… Khi sanh khởi sự nhàm chán, vị ấy trở nên ly tham. Nhờ ly tham, tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát, có sự hiểu biết rằng: ‘Tâm đã được giải thoát’. Vị ấy hiểu rằng: ‘Sanh đã bị đoạn diệt, phạm hạnh đã được sống, những gì cần làm đã được làm, không còn tái sanh ở trạng thái hiện hữu này nữa.’”
Đây là những gì Đức Thế Tôn đã dạy. Chư tỳ khưu hoan hỷ với lời dạy của Ngài. Trong khi bài pháp này được thuyết giảng, tâm của một ngàn tỳ khưu đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc nhờ sự không chấp thủ.
Chú Thích
"Gayāsīse" đặt tên như vậy vì nằm gần Gayā, nơi có một cái hồ (pokkharaṇī) và một con sông. Ngoài ra, có một tảng đá lớn giống như bướu đầu voi nên kinh chữ Hán thường dịch là Tượng Đầu, đủ chỗ cho cả ngàn tỳ-kheo tụ họp. Đức Thế Tôn đã trú tại đó. Do vậy, câu kinh nói "Gayāsīse" để chỉ địa điểm này.
Sớ giải đặc biệt chú thích cụm từ "Bhikkhū āmantesīti" (Ngài gọi chư Tỳ khưu) với ý nghĩa: Đức Thế Tôn, sau khi suy xét kỹ lưỡng bài pháp thích hợp với các tỳ khưu, đã quyết định thuyết giảng bài pháp này.
Bài kinh này, thường được gọi là “Bài Pháp Về Lửa” (Adittapariyaya Sutta), là bài pháp thứ ba của Đức Phật trong hành trình giáo hóa của Ngài, được ghi lại Luật Tạng (Vin I 34–35). Theo nguồn này, một ngàn vị tỳ khưu là những cựu khổ hạnh tóc bện (jaṭila) dưới sự dẫn dắt của ba anh em Kassapa. Đức Phật đã chuyển hóa họ qua một loạt các phép thần thông, sau đó thuyết giảng bài kinh này. Ngài Bodhi dịch là Burning Sutta.
Bài pháp có ý nghĩa đặc biệt vì trước khi chuyển hóa, các khổ hạnh này đã cúng tế lửa như một nghi lễ tâm linh. Sự chuyển hóa từ việc tôn thờ lửa sang hiểu về bản chất "bốc cháy" của các căn xứ (ayatana) là một sự giác ngộ sâu sắc. Câu chuyện chi tiết hơn được ghi tại Vin I 24–34 và có thể tham khảo thêm trong Cuộc Đời Đức Phật của Ñāṇamoli, các trang 54–60 và 64–69.
Sớ giải cũng ghi rằng:
Sau khi dẫn một ngàn vị tỳ-kheo đến đỉnh Gayāsīse, Đức Thế Tôn đã quán chiếu: “Bài pháp nào phù hợp nhất với họ?”. Ngài nhận ra rằng:
"Trong quá khứ, họ đã thờ lửa vào buổi sáng và buổi tối. Ta sẽ giảng dạy rằng mười hai xứ (āyatana) đều đang bốc cháy. Theo cách này, họ sẽ có thể đạt đến quả vị A-la-hán."
Bài kinh nhấn mạnh dấu ấn của khổ đau (dukkha-lakkhaṇa), giải thích rằng tất cả các căn, trần và thức đều bị "thiêu đốt" bởi tham, sân và si.
Sớ Giải
28. chaṭṭhe gayāsīseti gayāgāmassa hi avidūre gayāti ekā pokkharaṇīpi atthi nadīpi, gayāsīsanāmako hatthikumbhasadiso piṭṭhipāsāṇopi, yattha bhikkhusahassassapi okāso pahoti, bhagavā tattha viharati. tena vuttaṃ “gayāsīse”ti. bhikkhū āmantesīti tesaṃ sappāyadhammadesanaṃ vicinitvā taṃ desessāmīti āmantesi.
tatrāyaṃ anupubbikathā — ito kira dvānavutikappe mahindo nāma rājā ahosi. tassa jeṭṭhaputto phusso nāma. so pūritapāramī pacchimabhavikasatto, paripākagate ñāṇe bodhimaṇḍaṃ āruyha sabbaññutaṃ paṭivijjhi. rañño kaniṭṭhaputto tassa aggasāvako ahosi, purohitaputto dutiyasāvako. rājā cintesi — “mayhaṃ jeṭṭhaputto nikkhamitvā buddho jāto, kaniṭṭhaputto aggasāvako, purohitaputto dutiyasāvako”ti. so “amhākaṃyeva buddho, amhākaṃ dhammo, amhākaṃ saṅgho”ti vihāraṃ kāretvā vihāradvārakoṭṭhakato yāva attano gharadvārā ubhato veḷubhittikuṭikāhi parikkhipitvā matthake suvaṇṇatārakakhacitasamosaritagandhadāmamālādāmavitānaṃ bandhāpetvā heṭṭhā rajatavaṇṇaṃ vālukaṃ santharitvā pupphāni vikirāpetvā tena maggena bhagavato āgamanaṃ kāresi.
satthā vihārasmiṃyeva ṭhito cīvaraṃ pārupitvā antosāṇiyāva saddhiṃ bhikkhusaṅghena rājagehaṃ āgacchati, katabhattakicco antosāṇiyāva gacchati. koci kaṭacchubhikkhāmattampi dātuṃ na labhati. tato nāgarā ujjhāyiṃsu, “buddho loke uppanno, na ca mayaṃ puññāni kātuṃ labhāma. yathā hi candimasūriyā sabbesaṃ ālokaṃ karonti, evaṃ buddhā nāma sabbesaṃ hitatthāya uppajjanti, ayaṃ pana rājā sabbesaṃ puññacetanaṃ attanoyeva anto pavesetī”ti.
tassa ca rañño aññe tayo puttā atthi. nāgarā tehi saddhiṃ ekato hutvā sammantayiṃsu, “rājakulehi saddhiṃ aṭṭo nāma natthi, ekaṃ upāyaṃ karomā”ti. te paccante core uṭṭhāpetvā, “katipayā gāmā pahaṭā”ti sāsanaṃ āharāpetvā rañño ārocayiṃsu. rājā putte pakkosāpetvā“tātā, ahaṃ mahallako, gacchatha core vūpasamethā”ti pesesi. payuttacorā ito cito ca avippakiritvā tesaṃ santikameva āgacchiṃsu. te anāvāse gāme vāsetvā “vūpasamitā corā”ti āgantvā rājānaṃ vanditvā aṭṭhaṃsu.
rājā tuṭṭho “tātā, varaṃ vo demī”ti āha. te adhivāsetvā gantvā nāgarehi saddhiṃ mantayiṃsu, “raññā amhākaṃ varo dinno. kiṃ gaṇhāmā”ti? ayyaputtā, tumhākaṃ hatthiassādayo na dullabhā, buddharatanaṃ pana dullabhaṃ, na sabbakālaṃ uppajjati, tumhākaṃ jeṭṭhabhātikassa phussabuddhassa paṭijagganavaraṃ gaṇhathāti. te “evaṃ karissāmā”ti nāgarānaṃ paṭissuṇitvā katamassukammā sunhātā suvilittā rañño santikaṃ gantvā, “deva, no varaṃ dethā”ti yāciṃsu. kiṃ gaṇhissatha tātāti? deva, amhākaṃ hatthiassādīhi attho natthi, jeṭṭhabhātikassa no phussabuddhassa paṭijagganavaraṃ dethāti. “ayaṃ varo na sakkā mayā jīvamānena dātun”ti dve kaṇṇe pidahi. “deva, na tumhe amhehi balakkārena varaṃ dāpitā, tumhehi attano ruciyā tuṭṭhehi dinno. kiṃ, deva, rājakulassa dve kathā vaṭṭantī”ti? saccavāditāya bhaṇiṃsu.
rājā vinivattituṃ alabhanto — “tātā, satta saṃvacchare satta māse satta ca divase upaṭṭhahitvā tumhākaṃ dassāmī”ti āha. “sundaraṃ, deva, pāṭibhogaṃ dethā”ti. “kissa pāṭibhogaṃ tātā”ti? “ettakaṃ kālaṃ amaraṇapāṭibhogaṃ devā”ti. “tātā, ayuttaṃ pāṭibhogaṃ dāpetha, na sakkā evaṃ pāṭibhogaṃ dātuṃ, tiṇagge ussāvabindusadisaṃ sattānaṃ jīvitan”ti. “no ce, deva, pāṭibhogaṃ detha, mayaṃ antarā matā kiṃ kusalaṃ karissāmā”ti? “tena hi, tātā, cha saṃvaccharāni dethā”ti. “na sakkā, devā”ti. “tena hi pañca, cattāri, tīṇi, dve, ekaṃ saṃvaccharaṃ detha”. “satta, cha māse detha ... pe ... māsaḍḍhamattaṃ dethā”ti. “na sakkā, devā”ti. “tena hi sattadivasamattaṃ dethā”ti. “sādhu, devāti satta divase sampaṭicchiṃsu”. rājā satta saṃvacchare satta māse satta divase kattabbasakkāraṃ sattasuyeva divasesu akāsi.
tato puttānaṃ vasanaṭṭhānaṃ satthāraṃ pesetuṃ aṭṭhausabhavitthataṃ maggaṃ alaṅkārāpesi, majjhaṭṭhāne catūsabhappamāṇaṃ padesaṃ hatthīhi maddāpetvā kasiṇamaṇḍalasadisaṃ katvā vālukāya santharāpetvā pupphābhikiṇṇamakāsi, tattha tattha kadaliyo ca puṇṇaghaṭe ca ṭhapāpetvā dhajapaṭākā ukkhipāpesi. usabhe usabhe pokkharaṇiṃ khaṇāpesi, aparabhāge dvīsu passesu gandhamālāpupphāpaṇe pasārāpesi. majjhaṭṭhāne catūsabhavitthārassa alaṅkatamaggassa ubhosu passesu dve dve usabhavitthāre magge khāṇukaṇṭake harāpetvā daṇḍadīpikāyo kārāpesi. rājaputtāpi attano āṇāpavattiṭṭhāne soḷasausabhamaggaṃ tatheva alaṅkārāpesuṃ.
rājā attano āṇāpavattiṭṭhānassa kedārasīmaṃ gantvā satthāraṃ vanditvā paridevamāno, “tātā, mayhaṃ dakkhiṇakkhiṃ uppāṭetvā gaṇhantā viya gacchatha, evaṃ gaṇhitvā gatā pana buddhānaṃ anucchavikaṃ kareyyātha. mā surāsoṇḍā viya pamattā vicaritthā”ti āha. te “jānissāma mayaṃ, devā”ti satthāraṃ gahetvā gatā, vihāraṃ kāretvā satthu niyyātetvā tattha satthāraṃ paṭijaggantā kālena therāsane, kālena majjhimāsane, kālena saṅghanavakāsane tiṭṭhanti. dānaṃ upaparikkhamānānaṃ tiṇṇampi janānaṃ ekasadisameva ahosi. te upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya cintayiṃsu — “kathaṃ nu kho satthu ajjhāsayaṃ gaṇheyyāmā”ti? atha nesaṃ etadahosi — “buddhā nāma dhammagaruno, na āmisagaruno, sīle patiṭṭhamānā mayaṃ satthu ajjhāsayaṃ gahetuṃ sakkhissāmā”ti dānasaṃvidhāyake manusse pakkosāpetvā, “tātā, imināva nīhārena yāgubhattakhādanīyādīni sampādentā dānaṃ pavattethā”ti vatvā dānasaṃvidahanapalibodhaṃ chindiṃsu.
atha nesaṃ jeṭṭhabhātā pañcasate purise ādāya dasasu sīlesu patiṭṭhāya dve kāsāyāni acchādetvā kappiyaṃ udakaṃ paribhuñjamāno vāsaṃ kappesi. majjhimo tīhi, kaniṭṭho dvīhi purisasatehi saddhiṃ tatheva paṭipajji. te yāvajīvaṃ satthāraṃ upaṭṭhahiṃsu. satthā tesaṃyeva santike parinibbāyi.
tepi kālaṃ katvā tato paṭṭhāya dvānavutikappe manussalokato devalokaṃ, devalokato ca manussalokaṃ saṃsarantā amhākaṃ satthukāle devalokā cavitvā manussaloke nibbattiṃsu. tesaṃ dānagge byāvaṭo mahāamacco aṅgamagadhānaṃ rājā bimbisāro hutvā nibbatti. te tasseva rañño raṭṭhe brāhmaṇamahāsālakule nibbattiṃsu. jeṭṭhabhātā jeṭṭhova jāto, majjhimakaniṭṭhā majjhimakaniṭṭhāyeva. yepi tesaṃ parivāramanussā, te parivāramanussāva jātā. te vuddhimanvāya tayopi janā taṃ purisasahassaṃ ādāya nikkhamitvā tāpasā hutvā uruvelāyaṃ nadītīreyeva vasiṃsu. aṅgamagadhavāsino māse māse tesaṃ mahāsakkāraṃ abhiharanti.
atha amhākaṃ bodhisatto katābhinikkhamano anupubbena sabbaññutaṃ patvā pavattitavaradhammacakko yasādayo kulaputte vinetvā saṭṭhi arahante dhammadesanatthāya disāsu uyyojetvā sayaṃ pattacīvaramādāya — “te tayo jaṭilabhātike damessāmī”ti uruvelaṃ gantvā anekehi pāṭihāriyasatehi tesaṃ diṭṭhiṃ bhinditvā te pabbājesi. so taṃ iddhimayapattacīvaradharaṃ samaṇasahassaṃ ādāya gayāsīsaṃ gantvā tehi parivārito nisīditvā, — “katarā nu kho etesaṃ dhammakathā sappāyā”ti cintento, “ime sāyaṃpātaṃ aggiṃ paricaranti. imesaṃ dvādasāyatanāni ādittāni sampajjalitāni viya katvā desessāmi, evaṃ ime arahattaṃ pāpuṇituṃ sakkhissantī”ti sanniṭṭhānamakāsi. atha nesaṃ tathā dhammaṃ desetuṃ imaṃ ādittapariyāyaṃ abhāsi. tena vuttaṃ — “bhikkhū āmantesīti tesaṃ sappāyadhammadesanaṃ vicinitvā taṃ desessāmīti āmantesī”ti. tattha ādittanti padittaṃ sampajjalitaṃ. sesaṃ vuttanayameva. iti imasmiṃ sutte dukkhalakkhaṇaṃ kathitaṃ.
"Gayāsīse" (trên đỉnh Gayā): Đỉnh Gayā được đặt tên như vậy vì nằm gần Gayā, nơi có một cái hồ (pokkharaṇī) và một con sông. Ngoài ra, có một tảng đá lớn giống như bướu voi, đủ chỗ cho cả ngàn tỳ-kheo tụ họp. Đức Thế Tôn đã trú tại đó. Do vậy, câu kinh nói "Gayāsīse" để chỉ địa điểm này.
"Bhikkhū āmantesīti" (Ngài gọi các tỳ-kheo): Đức Thế Tôn, sau khi suy xét kỹ lưỡng bài pháp thích hợp với các tỳ-kheo, đã quyết định thuyết giảng bài pháp này.
Tiền thân trong kiếp quá khứ: Cách đây 92 kiếp, có một vị vua tên là Mahindo. Vua có một người con trưởng tên là Phusso, người đã hoàn thành các pháp ba-la-mật và sinh ra để thành Phật trong kiếp cuối cùng. Khi đến lúc giác ngộ, Ngài lên cây Bồ-đề và chứng đắc Toàn Giác (sabbaññutañāṇa). Người em út của vua trở thành vị thượng thủ đệ tử (aggasāvaka), còn con trai của vị đại thần trở thành vị đệ nhị đệ tử (dutiyasāvaka).
Khi vua thấy các con trai của mình có mối liên hệ đặc biệt với Đức Phật, Ngài đã xây một ngôi tinh xá, trang trí từ cổng tinh xá đến cung điện bằng những tán hoa thơm và ánh vàng lấp lánh. Vua làm công trình này với chủ tâm là Đức Phật và Tăng đoàn sẽ đi trên con đường này khi đến cung điện thọ trai.
Tuy nhiên, người dân trong vùng phàn nàn vì không có cơ hội để tạo phước. Họ nói rằng: "Buddha xuất hiện trên thế gian vì lợi ích của tất cả mọi người, nhưng vua dành cơ hội tạo phước cho riêng mình."
Người dân đã liên minh với ba người con còn lại của vua để khởi tạo một cuộc nổi dậy giả. Sau khi vua gửi các con đi trấn áp, họ trở về chiến thắng và vua ban cho họ một điều ước. Các con yêu cầu vua cho phép họ chăm sóc Đức Phật thay vì giữ Ngài riêng trong cung điện. Cuối cùng, vua phải nhượng bộ và đồng ý với điều kiện Đức Phật sẽ ở với họ trong bảy ngày, trước khi giao phó toàn bộ trách nhiệm chăm sóc cho họ.
Ba người con của vua đã cùng nhau tổ chức các buổi lễ cúng dường quy mô lớn, đồng thời thiết lập các nghi thức chăm sóc Đức Phật. Họ duy trì sự kính lễ này trọn đời.
Trong Kiếp Đức Thích Ca:
Những người này tiếp tục luân hồi qua nhiều kiếp, sinh ra trong các gia đình quý tộc tại thời của Đức Thích Ca. Họ trở thành ba anh em khổ hạnh (jaṭila), sống tại bờ sông Uruvela cùng với một ngàn môn đồ. Khi Đức Thế Tôn đạt giác ngộ, Ngài đã đến Uruvela, thực hiện nhiều phép thần thông để chuyển hóa họ và cuối cùng thuyết pháp để họ chứng quả A-la-hán.
Sau khi thu nhận họ vào Tăng đoàn, Đức Thế Tôn dẫn các đệ tử này đến đỉnh Gayā. Tại đây, Ngài quán sát rằng họ quen với việc cúng lửa và cảm nhận lửa trong các giác quan. Ngài quyết định dùng hình ảnh lửa để giảng giải về bản chất bốc cháy của các giác quan. Kết quả là cả ngàn tỳ-kheo đều đạt quả A-la-hán sau bài pháp này.
Trong bài kinh này, Đức Phật đã trình bày dấu ấn khổ đau (dukkhalakkhaṇa) qua hình ảnh "cháy" để nhấn mạnh rằng mọi giác quan và cảm thọ đều bị thiêu đốt bởi tham, sân, si và vòng luân hồi của sinh, lão, bệnh, tử.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
28.VI. Bị Bốc Cháy (S.iv,19)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Gàya, tại Gàyasiisa cùng với một ngàn Tỷ-kheo.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, đều bị bốc cháy. Và này các Tỷ-kheo, tất cả cái gì đều bị bốc cháy?
3-5) Mắt, này các Tỷ-kheo, bị bốc cháy. Các sắc bị bốc cháy. Nhãn thức bị bốc cháy. Nhãn xúc bị bốc cháy. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não... Tai... Mũi...
6-7) Lưỡi bị bốc cháy. Các vị bị bốc cháy. Thiệt thức bị bốc cháy. Thiệt xúc bị bốc cháy. Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não... Thân...
8) Ý bị bốc cháy. Các pháp bị bốc cháy. Ý thức bị bốc cháy. Ý xúc bị bốc cháy. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy... đối với tai... đối với mũi... đối với lưỡi... đối với thân... nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí hiểu biết rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui với trạng thái này nữa".
10) Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
11) Và trong khi lời giải đáp này được nói lên, tâm của một ngàn Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.