- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 29.2.2025
LẤY THÂN BỆNH TIÊU TRỪ TÂM BỆNH
Kinh Bệnh I (Paṭhamagilānasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Bệnh (SN.35.74)
Ái chấp là nguyên nhân sanh khổ. Sự diệt tận ái chấp là sự diệt khổ. Một khi thấy rõ bản chất vô thường, khổ não, vô ngã sẽ có khả năng buông xả với cả hai nội tại và ngoại giới. Tâm không bị cột trói là tâm giải thoát. Một người bị bệnh thân và lấy đó làm đề tài quán chiếu về tính luôn thay đổi, rỗng không và bất lực đối với thân tâm, từ đó tạo thành khả tính vượt lên trên ái chấp. Lấy thân bệnh tiêu trừ tâm bệnh đây là cách mà binh pháp gọi là “dương đông kích tây”.
Kinh Văn
74. sāvatthinidānaṃ. atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami ... pe ... ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — “amukasmiṃ, bhante, vihāre aññataro bhikkhu navo appaññāto ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. sādhu, bhante, bhagavā yena so bhikkhu tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”ti.
atha kho bhagavā navavādañca sutvā gilānavādañca, “appaññāto bhikkhū”ti iti viditvā yena so bhikkhu tenupasaṅkami. addasā kho so bhikkhu bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. disvāna mañcake samadhosi {samañcosi (sī.), samatesi (syā. kaṃ.), samañcopi (pī.)} . atha kho bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca — “alaṃ, bhikkhu, mā tvaṃ mañcake samadhosi. santimāni āsanāni paññattāni, tatthāhaṃ nisīdissāmī”ti. nisīdi bhagavā paññatte āsane. nisajja kho bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca — “kacci te, bhikkhu, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti no abhikkamanti, paṭikkamosānaṃ paññāyati no abhikkamo”ti?
“na me, bhante, khamanīyaṃ, na yāpanīyaṃ, bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti no paṭikkamanti, abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamo”ti.
“kacci te, bhikkhu, na kiñci kukkuccaṃ, na koci vippaṭisāro”ti?
“taggha me, bhante, anappakaṃ kukkuccaṃ, anappako vippaṭisāro”ti.
“kacci pana taṃ {tvaṃ (sī.), te (syā. kaṃ. ka.)}, bhikkhu, attā sīlato upavadatī”ti?
“na kho maṃ, bhante, attā sīlato upavadatī”ti {no hetaṃ bhante (pī. ka.)} .
“no ce kira te, bhikkhu, attā sīlato upavadati, atha kiñca {atha kismiñca (sī.), atha bhikkhu kismiñca (syā. kaṃ. pī. ka.)} te kukkuccaṃ ko ca vippaṭisāro”ti?
“na khvāhaṃ, bhante, sīlavisuddhatthaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”ti.
“no ce kira tvaṃ, bhikkhu, sīlavisuddhatthaṃ mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsi, atha kimatthaṃ carahi tvaṃ, bhikkhu, mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsī”ti?
“rāgavirāgatthaṃ khvāhaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”ti.
“sādhu sādhu, bhikkhu! sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, rāgavirāgatthaṃ mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsi. rāgavirāgattho hi, bhikkhu, mayā dhammo desito. taṃ kiṃ maññasi bhikkhu, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“aniccaṃ, bhante”.
“yaṃ ... pe ... sotaṃ... ghānaṃ... jivhā... kāyo... mano nicco vā anicco vā”ti?
“anicco, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“dukkhaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“no hetaṃ, bhante”.
“evaṃ passaṃ, bhikkhu, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, sotasmimpi nibbindati ... pe ... manasmimpi nibbindati. nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.
idamavoca bhagavā. attamano so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinandi. imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne tassa bhikkhuno virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi — “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti. paṭhamaṃ.
Tại Sāvatthi.
Bấy giờ một vị tỳ khưu đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, tại một tịnh xá nọ, có một vị tỳ khưu mới xuất gia, không được nhiều người biết đến, hiện đang bệnh nặng, đau đớn, nguy kịch. Bạch Thế Tôn, thật diễm phúc, nếu Ngài bi mẫn đến thăm tỳ khưu ấy”.
Khi nghe những lời “mới xuất gia” và “bệnh nặng”, hiểu rằng vị này không phải là một tỳ khưu được nhiều người biết đến, Thế Tôn liền đi đến chỗ vị ấy. Vị tỳ khưu bệnh nhìn thấy Thế Tôn từ xa đi tới, liền cựa quậy trên giường. Thế Tôn bảo:
“Thôi đủ rồi, này Tỳ khưu, đừng cựa quậy trên giường. Đã có sẵn chỗ ngồi, ta sẽ ngồi”.
Sau khi ngồi xuống chỗ đã được chuẩn bị, Thế Tôn nói với vị Tỳ khưu:
“Hy vọng ông kham nhẫn được, hy vọng Thầy đang dần bình phục. Mong rằng những cảm thọ đau đớn của Thầy giảm bớt chứ không gia tăng và có thể thấy được sự thuyên giảm”.
Vị Tỳ khưu thưa:
“Bạch Thế Tôn, con không chịu đựng được, con không khá lên. Những cảm thọ đau đớn ngày càng tăng, không hề thuyên giảm và con chỉ thấy sự gia tăng của chúng”.
“Vậy thì, này Tỳ-kheo, mong rằng ông không bị phiền não bởi sự hối hận và ân hận”.
“Bạch Thế Tôn, thực sự con có rất nhiều tiếc nuối và ân hận”.
“Mong rằng ông không có gì để tự trách mình về giới hạnh”.
“Bạch Thế Tôn, con không có gì để tự trách về giới hạnh”.
“Vậy thì, này Tỳ-kheo, nếu ông không có gì để tự trách về giới hạnh, tại sao lại bị phiền não bởi sự tiếc nuối và ân hận?”
“Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng giáo pháp không được Ngài giảng dạy chỉ vì sự thanh tịnh của giới hạnh”.
“Nếu Thầy hiểu rằng giáo pháp không được ta giảng dạy chỉ vì sự thanh tịnh của giới hạnh, vậy ông hiểu giáo pháp được giảng dạy vì cứu cánh gì?”
“Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng giáo pháp được Ngài giảng dạy vì mục đích đoạn diệt dục ái”.
“Tốt lắm, tốt lắm, này Tỳ-kheo! Thật tốt khi Thầy hiểu giáo pháp được ta giảng dạy vì mục đích đoạn diệt dục ái. Vì giáo pháp được ta giảng dạy là để đoạn diệt dục ái”.
“Thầy nghĩ sao, này Tỳ khưu, mắt là thường hay vô thường?”
— “Vô thường, bạch Thế Tôn”.
— “Tai… mũi… lưỡi… thân… ý là thường hay vô thường?”
— “Vô thường, bạch Thế Tôn”.
— “Những gì vô thường là khổ hay lạc?”
— “Là khổ, bạch Thế Tôn”.
— “Những gì vô thường, khổ và chịu sự biến hoại, có đáng xem là ‘cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta’ không?”
— “Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“Thấy như vậy… vị ấy hiểu rằng: ‘Không còn gì nữa cho trạng thái hiện hữu này.’”
Đó là những gì Thế Tôn đã nói. Vị Tỳ khưu phấn khởi, hoan hỷ trong lời dạy của Thế Tôn. Và ngay trong lúc bài pháp được giảng, nơi vị Tỳ khưu ấy khởi lên Pháp nhãn thanh tịnh, vô cấu: “Bất cứ điều gì có sanh khởi đều sẽ hoại diệt”.
Chú Thích
Ragaviraga (đoạn diệt tham ái): Cụm từ này gần như mang ý nghĩa lặp lại, vì “viraga” tự nó đã có nghĩa là sự vắng mặt của raga (tham ái). Tuy nhiên, từ “viraga” ban đầu có nghĩa là "sự phai màu", vì vậy toàn bộ cụm từ có thể được hiểu là "sự phai nhạt" của "màu sắc" do tham ái lan tỏa.
Sự khởi sinh của Pháp nhãn (dhammacakkhu): Điều này có nghĩa là đạt được một trong ba tầng thánh đầu tiên của giác ngộ, thường là Nhập lưu (Sotāpanna).
Sớ Giải
74-78. gilānavaggassa paṭhame amukasminti asukasmiṃ. ayameva vā pāṭho. appaññātoti aññāto apākaṭo. navopi hi koci paññāto hoti rāhulatthero viya sumanasāmaṇero viya ca, ayaṃ pana navo ceva apaññāto ca. sesamettha vuttanayamevāti. tathā ito paresu catūsu.
Amukasminti có nghĩa là asukasmiṃ (ở một nơi nào đó). Đây cũng có thể là một bản đọc khác.
Appaññāto có nghĩa là chưa được biết đến, không nổi tiếng. Một số vị Tỳ-kheo dù mới xuất gia (nava) nhưng vẫn được nhiều người biết đến, như Tôn giả Rāhula hay sa di Sumana. Tuy nhiên, vị Tỳ-kheo trong trường hợp này vừa mới xuất gia (nava) vừa không nổi tiếng (apaññāto).
Các phần còn lại trong đoạn này được giải thích theo cách đã nói trước đây. Điều này cũng áp dụng cho bốn bài tiếp theo trong phẩm này.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
74.I. Bệnh (1) (S.iv,46)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Trong tịnh xá của chúng con, bạch Thế Tôn, có một tân Tỷ-kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến Tỷ-kheo ấy vì lòng từ mẫn.
4) Rồi Thế Tôn sau khi nghe tiếng "Mới", nghe tiếng "Bệnh", khi biết được: "Tỷ-kheo ấy ít được người biết đến" liền đi đến Tỷ-kheo ấy.
5) Tỷ-kheo ấy thấy đức Phật từ xa đi đến, sau khi thấy, liền gượng dậy trên giường.
6) Thế Tôn liền nói với Tỷ-kheo ấy:
-- Thôi! Này Tỷ-kheo, Ông chớ có gượng dậy trên giường. Có những chỗ ngồi đã soạn sẵn, tại đấy Ta sẽ ngồi.
Rồi Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.
7) Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy:
-- Này Tỷ-kheo, Ông có kham nhẫn được không? Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không tăng trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng trưởng?
-- Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng. Mãnh liệt là khổ thọ con cảm giác! Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không phải giảm thiểu.
8) -- Này Tỷ-kheo, mong rằng Ông không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận.
-- Bạch Thế Tôn, chắc chắn con không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận.
9) -- Nhưng đối với giới của mình, Ông có gì tự khiển trách không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Này Tỷ-kheo, nếu đối với giới của mình Ông không có gì để khiển trách, thời này Tỷ-kheo, Ông thế nào cũng có nghi ngờ đối với vấn đề gì, cũng có hối hận gì.
-- Bạch Thế Tôn, con không hiểu pháp Thế Tôn dạy về mục đích thanh tịnh trì giới.
11) -- Này Tỷ-kheo, nếu Ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, Ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp do Thế Tôn dạy là tham và đoạn tham.
12) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là tham và đoạn tham. Với mục đích tham và đoạn tham, này Tỷ-kheo, là pháp Ta dạy.
13) Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn...
-- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
14) -- Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Thế Tôn thuyết như vậy, Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, Tỷ-kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: "Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt".