Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || KHÔNG CỐT LÕI THÌ CÓ GÌ ĐỂ BÁM CHẤP? - Kinh Bọt Nổi (Pheṇapiṇḍūpamasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || KHÔNG CỐT LÕI THÌ CÓ GÌ ĐỂ BÁM CHẤP? - Kinh Bọt Nổi (Pheṇapiṇḍūpamasuttaṃ)

, 03/08/2024, 08:55 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bāi học ngāy 31.7.2024

KHÔNG CỐT LÕI THÌ CÓ GÌ ĐỂ BÁM CHẤP?

Kinh Bọt Nổi (Pheṇapiṇḍūpamasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm Hoa (S,iii,95)

Đi tìm chân ngã là sự khao khát muôn thuở của kiếp nhân sinh. Ý niệm “ta là ai” nếu được trả lời chính xác là sự tồn tại của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mỗi thành phần có tự tánh riêng nhưng xét kỹ tất cả đều giả hợp, huyễn hoá. Vấn đề là sự chấp thủ tạo nên sự thất vọng và phiền lụy. Có ai nắm bắt được những bong bóng nước mỏng manh, chóng vỡ? Hành giả sẽ an nhiên khi chấp nhận dòng hiện hữu là tập hợp của hiện tượng sanh diệt liên tục đổi thay.

Kinh văn

Một thuở, Đức Thế Tôn ngự tại Ayojjha, bên bờ sông Hằng. Tại đó, Đức Thế Tôn nói với chư Tỳ khưu:

“Này chư Tỳ khưu, ví như con sông Hằng cuốn theo một khối bọt nổi lớn. Một người có mắt thấy nó, quan sát tường tận, suy ngẫm thấu đáo người ấy sẽ thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì khối bọt nổi này có gì là thực chất? Cũng vậy, này chư Tỳ khưu, bất kỳ sắc nào, dù là quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội giới hay ngoại giới, thô hay tế, hạ liệt hay thù thắng, xa hay gần, hành giả thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì sắc có gì là thực chất cốt lõi?

“Này chư Tỳ khưu, ví như trong mùa mưa, khi những giọt nước mưa lớn rơi xuống, bong bóng nước xuất hiện và tan biến ngay lập tức. Một người có mắt thấy nó, quan sát tường tận, suy ngẫm thấu đáo người ấy sẽ thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì bong bóng nước có gì là thực chất? Cũng vậy, này chư Tỳ khưu, bất kỳ thọ nào, dù là quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội giới hay ngoại giới, thô hay tế, hạ liệt hay thù thắng, xa hay gần, hành giả thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì thọ có gì là thực chất cốt lõi?

“Này chư Tỳ khưu, ví như vào giữa mùa hè, giữa trưa, ánh nắng mặt trời tạo ra ảo ảnh. Một người có mắt thấy nó, quan sát tường tận, suy ngẫm thấu đáo người ấy sẽ thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì ảo ảnh có gì là thực chất? Cũng vậy, này chư Tỳ khưu, bất kỳ tưởng nào, dù là quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội giới hay ngoại giới, thô hay tế, hạ liệt hay thù thắng, xa hay gần, hành giả thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì tưởng có gì là thực chất cốt lõi?

“Này chư Tỳ khưu, ví như một người tìm kiếm lõi cây trong rừng, mang theo một chiếc rìu sắc nhọn. Người ấy thấy một cây chuối lớn, thẳng, mới mọc. Anh ta chặt nó ở gốc, chặt từng đoạn, bóc từng lớp vỏ. Khi bóc hết lớp vỏ, người ấy không thấy gì là thân cứng, không thấy cốt lõi. Một người có mắt thấy nó, quan sát tường tận, suy ngẫm thấu đáo người ấy sẽ thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì cây chuối có gì là thực chất cốt lõi? Cũng vậy, này chư Tỳ khưu, bất kỳ hành nào, dù là quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội giới hay ngoại giới, thô hay tế, hạ liệt hay thù thắng, xa hay gần, hành giả thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì hành có gì là thực chất cốt lõi?

“Này chư Tỳ khưu, ví như một ảo thuật gia hoặc học trò của ảo thuật gia biểu diễn một màn ảo thuật trên ngã tư đường. Một người có mắt thấy nó, quan sát tường tận, suy ngẫm thấu đáo người ấy sẽ thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì trò ảo thuật có gì là thực chất cốt lõi? Cũng vậy, này chư Tỳ khưu, bất kỳ thức nào, dù là quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội giới hay ngoại giới, thô hay tế, hạ liệt hay thù thắng, xa hay gần, hành giả thấy nó trống rỗng, huyễn thể và không có cốt lõi. Này chư Tỳ khưu, bởi vì thức có gì là thực chất cốt lõi?

Này chư Tỳ khưu, vị thánh đệ tử có học hiểu thấy vậy sanh tâm yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm ly đối với thức. Do yểm ly vị ấy ly tham. Do ly tham, tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Đức Thế Tôn thuyết như vậy. Đấng Thiện Thệ, Bậc Đạo Sư, nói thêm:

Sắc như khối bọt nổi,

Thọ như bong bóng nước,

Tưởng giống như ảo ảnh,

Hành như thân cây chuối,

Thức như trò ảo thuật,

Được Đại Nhật Trí Giả

Tuyên thuyết giải thích rõ

Khéo suy nghiệm thẩm định

Nhận ra được bản chất

Là hư huyễn bào ảnh

Vốn trống rỗng hư ảo

Đối với tấm thân này

Đấng Đại Trí đã dạy

Khi không còn ba thứ

Là sự sống, chất ấm,

Và cùng với tâm thức

Bị vất bỏ, vô tri

Biến thành loại thức ăn

Cho những sinh vật khác

Chính dòng chảy hiện hữu

Khiến kẻ ngu ảo tưởng

Lại là sự sát hại

Không tìm thấy cốt lõi

Tỳ khưu với nghị lực

Quán chiếu các uẩn này

Cho dù đêm hay ngày

Hiểu biết và chánh niệm

Vị ấy đoạn trói buộc

Tự thân làm chỗ nương

Như lửa cháy trên đầu

Hành trình hướng Bất Tử.

Chú thích:

Thị trấn Ayujjhapura nằm bên bờ sông Hằng (Ganga). Theo sớ giải, thì dân chúng ở đây đã xây dựng tịnh xá ven sông với nhiều đại thụ cúng dường Đức Phật và Tăng chúng. Đức Phật giảng kinh này vào buổi chiều trong ngày khánh thành tịnh xá.

Sắc uẩn hay xác thân là thành phần vật chất của con người. Mặc dù nhìn tấm thân như là một thực thể với hình vóc đẹp, xấu, cao, thấp... nhưng nếu qua cái nhìn rõ hơn, như về mặt y khoa, thì xác thân chỉ là tập hợp của những tế bào vốn liên tục biến đổi.

Thọ uẩn hay cảm thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xả vốn do nhiều nhân duyên tạo thành và hoại diệt chóng vánh như bong bóng nước trước hiên nhà trong ngày mưa. Đâu ai có thể cầm nắm được bọt nước vốn mỏng mảnh.

Tưởng uẩn hay sự nhận thức do trải nghiệm cũng chỉ là sự tồn đọng của quá khứ. Thấy như thực nhưng kỳ thật chỉ là biến hoá của nội tại giống như ảo ảnh giữa sa mạc. Thấy dường như là hồ nước lớn nhưng chỉ là ảo ảnh.

Hành uẩn hay sự tạo tác của tâm. Là một thứ phức cảm với nhiều thuộc tính. Khi phân ra thành từng thứ riêng biệt thì chẳng có gì là thực thể cốt lõi, như thân cây chuối lột ra từng lớp cuối cùng chẳng còn gì.

Thức uẩn hay các giác quan như trò ảo thuật. Do thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, suy tư tạo nên muôn ngàn ý niệm, kỳ thật chỉ là tâm đối cảnh rồi biến hoá vô cùng.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Dưới đây là chánh văn Pāli cùng với bản Việt dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

 

Ekaṃ samayaṃ bhagavā ayujjhāyaṃ viharati gaṅgāya nadiyā tīre. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

Một thời Thế Tôn ở Ayujjāya, trên bờ sông Hằng.

Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo …

“Seyyathāpi, bhikkhave, ayaṃ gaṅgā nadī mahantaṃ pheṇapiṇḍaṃ āvaheyya. Tamenaṃ cakkhumā puriso passeyya nijjhāyeyya yoniso upaparikkheyya. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyeyya, tucchakaññeva khāyeyya, asārakaññeva khāyeyya. Kiñhi siyā, bhikkhave, pheṇapiṇḍe sāro?

—Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Có người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được?

Evameva kho, bhikkhave, yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ …pe… yaṃ dūre santike vā taṃ bhikkhu passati nijjhāyati yoniso upaparikkhati. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyati, tucchakaññeva khāyati, asārakaññeva khāyati. Kiñhi siyā, bhikkhave, rūpe sāro?

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong sắc được?

Seyyathāpi, bhikkhave, saradasamaye thullaphusitake deve vassante udake udakapubbuḷaṃ uppajjati ceva nirujjhati ca. Tamenaṃ cakkhumā puriso passeyya nijjhāyeyya yoniso upaparikkheyya. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyeyya, tucchakaññeva khāyeyya, asārakaññeva khāyeyya. Kiñhi siyā, bhikkhave, udakapubbuḷe sāro?

Ví như, này các Tỷ-kheo, trong mùa thu, khi trời mưa những giọt mưa lớn, trên mặt nước, các bong bóng nước hiện ra rồi tan biến. Một người có mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, bong bóng nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong bong bóng nước được?

Evameva kho, bhikkhave, yā kāci vedanā atītānāgatapaccuppannā …pe… yā dūre santike vā taṃ bhikkhu passati nijjhāyati yoniso upaparikkhati. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyati, tucchakaññeva khāyati, asārakaññeva khāyati. Kiñhi siyā, bhikkhave, vedanāya sāro?

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có thọ gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát thọ ấy. Do Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, thọ ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong thọ được?

Seyyathāpi, bhikkhave, gimhānaṃ pacchime māse ṭhite majjhanhike kāle marīcikā phandati. Tamenaṃ cakkhumā puriso passeyya nijjhāyeyya yoniso upaparikkheyya. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyeyya, tucchakaññeva khāyeyya …pe… kiñhi siyā, bhikkhave, marīcikāya sāro?

Ví như, này các Tỷ-kheo, trong tháng cuối mùa hạ, vào đúng giữa trưa đứng bóng, một ráng mặt trời rung động hiện lên. Một người có mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó. Do người ấy nhìn chuyên chú, như lý quán sát, nên ráng mặt trời ấy hiện rõ ra là trống không, rỗng không, không có lõi cứng … Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong ráng mặt trời được?

Evameva kho, bhikkhave, yā kāci saññā …pe….

Seyyathāpi, bhikkhave, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno tiṇhaṃ kuṭhāriṃ ādāya vanaṃ paviseyya. So tattha passeyya mahantaṃ kadalikkhandhaṃ ujuṃ navaṃ akukkukajātaṃ. Tamenaṃ mūle chindeyya; mūle chetvā agge chindeyya, agge chetvā pattavaṭṭiṃ vinibbhujeyya. So tassa pattavaṭṭiṃ vinibbhujanto pheggumpi nādhigaccheyya, kuto sāraṃ. Tamenaṃ cakkhumā puriso passeyya nijjhāyeyya yoniso upaparikkheyya. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyeyya, tucchakaññeva khāyeyya, asārakaññeva khāyeyya. Kiñhi siyā, bhikkhave, kadalikkhandhe sāro?

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có tưởng gì …

Ví như, này các Tỷ-kheo, một người cần có lõi cây, tìm cầu lõi cây, đi tìm lõi cây, cầm cái búa sắc bén đi vào ngôi rừng. Ở đây, người ấy thấy một cụm cây chuối lớn, mọc thẳng, mới lớn, cao vút. Người ấy chặt rễ cây ấy. Sau khi chặt rễ, người ấy chặt ngọn. Sau khi chặt ngọn, người ấy lột vỏ chuối ngoài. Khi lột vỏ chuối ngoài, giác cây còn tìm không được, tìm đâu cho có được lõi cây?

Một người có mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát cụm chuối ấy. Khi người ấy nhìn chuyên chú, như lý quán sát cụm chuối ấy, cụm chuối ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là trống rỗng, hiện rõ ra là không có lõi cây. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cây trong cụm chuối được?

Evameva kho, bhikkhave, ye keci saṅkhārā atītānāgatapaccuppannā …pe… ye dūre santike vā taṃ bhikkhu passati nijjhāyati yoniso upaparikkhati. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyati, tucchakaññeva khāyati, asārakaññeva khāyati. Kiñhi siyā, bhikkhave, saṅkhāresu sāro?

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm các hành gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát hành ấy. Khi người ấy nhìn chuyên chú, như lý quán sát, hành ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là trống rỗng, hiện rõ ra là không có lõi cây. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cây trong các hành được?

Seyyathāpi, bhikkhave, māyākāro vā māyākārantevāsī vā catumahāpathe māyaṃ vidaṃseyya. Tamenaṃ cakkhumā puriso passeyya nijjhāyeyya yoniso upaparikkheyya. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyeyya, tucchakaññeva khāyeyya, asārakaññeva khāyeyya. Kiñhi siyā, bhikkhave, māyāya sāro?

Ví như, này các Tỷ-kheo, một ảo thuật sư hay đệ tử một ảo thuật sư, tại ngã tư đường bày trò ảo thuật. Một người có mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát trò ảo thuật ấy. Do người ấy nhìn chuyên chú, như lý quán sát, ảo thuật ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là trống rỗng, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong ảo thuật được?

Evameva kho, bhikkhave, yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ …pe… yaṃ dūre santike vā, taṃ bhikkhu passati nijjhāyati yoniso upaparikkhati. Tassa taṃ passato nijjhāyato yoniso upaparikkhato rittakaññeva khāyati, tucchakaññeva khāyati, asārakaññeva khāyati. Kiñhi siyā, bhikkhave, viññāṇe sāro?

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại … hoặc xa hay gần; Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát, thức ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là trống rỗng, hiện rõ ra là không có lõi cây. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cây trong thức được?

Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi … saññāyapi … saṅkhāresupi … viññāṇasmimpi nibbindati. Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti …pe… nāparaṃ itthattāyāti pajānāti”.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc … đối với thọ … đối với tưởng … đối với các hành … nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã giải thoát … không còn trở lui trạng thái này nữa”. Vị ấy biết rõ như vậy.

Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Thế Tôn thuyết như vậy. Bậc Thiện Thệ sau khi nói như vậy, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

“Pheṇapiṇḍūpamaṃ rūpaṃ,

vedanā bubbuḷūpamā;

Marīcikūpamā saññā,

saṅkhārā kadalūpamā;

Māyūpamañca viññāṇaṃ,

desitādiccabandhunā.

Sắc ví với đống bọt,

Thọ ví bong bóng nước,

Tưởng ví ráng mặt trời,

Hành ví với cây chuối,

Thức ví với ảo thuật,

Ðấng bà con mặt trời,

Ðã thuyết giảng như vậy.

Yathā yathā nijjhāyati,

yoniso upaparikkhati;

Rittakaṃ tucchakaṃ hoti,

yo naṃ passati yoniso.

Nếu như vậy chuyên chú,

Như lý chơn quán sát,

Như lý nhìn các pháp,

Hiện rõ tánh trống không.

Imañca kāyaṃ ārabbha,

bhūripaññena desitaṃ;

Pahānaṃ tiṇṇaṃ dhammānaṃ,

rūpaṃ passatha chaḍḍitaṃ.

Bắt đầu với thân này,

Bậc Ðại Tuệ thuyết giảng,

Ðoạn tận cả ba pháp,

Thấy sắc bị quăng bỏ.

Āyu usmā ca viññāṇaṃ,

yadā kāyaṃ jahantimaṃ;

Apaviddho tadā seti,

parabhattaṃ acetanaṃ.

Thân bị quăng, vô tri,

Không thọ, sức nóng, thức,

Bị quăng đi, nó nằm,

Làm đồ ăn kẻ khác.

Etādisāyaṃ santāno,

māyāyaṃ bālalāpinī;

Vadhako esa akkhāto,

sāro ettha na vijjati.

Cái thân liên tục này,

Ảo sư, kẻ ngu nói,

Ðược gọi kẻ sát nhân,

Không tìm thấy lõi cây.

Evaṃ khandhe avekkheyya,

bhikkhu āraddhavīriyo;

Divā vā yadi vā rattiṃ,

sampajāno paṭissato.

Hãy quán uẩn như vậy,

Vị Tỷ-kheo tinh cần,

Suốt cả đêm lẫn ngày,

Tỉnh giác, chánh tư niệm.

Jaheyya sabbasaṃyogaṃ,

kareyya saraṇattano;

Careyyādittasīsova,

patthayaṃ accutaṃ padan”ti.

Hãy bỏ mọi kiết sử,

Làm chỗ mình nương tựa,

Sống như lửa cháy đầu,

Cầu chứng cảnh bất động.

 

Sớ giải Kinh Pheṇapiṇḍūpama

tatiye gaṅgāya nadiyā tīreti ayujjhapuravāsino aparimāṇabhikkhuparivāraṃ cārikaṃ caramānaṃ tathāgataṃ attano nagaraṃ sampattaṃ disvā ekasmiṃ gaṅgāya nivattanaṭṭhāne mahāvanasaṇḍamaṇḍitappadese satthu vihāraṃ katvā adaṃsu. bhagavā tattha viharati. taṃ sandhāya vuttaṃ “gaṅgāya nadiyā tīre”ti. tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesīti tasmiṃ vihāre vasanto bhagavā sāyanhasamayaṃ gandhakuṭito nikkhamitvā gaṅgātīre paññattavarabuddhāsane nisinno gaṅgāya nadiyā āgacchantaṃ mahantaṃ pheṇapiṇḍaṃ disvā, “mama sāsane pañcakkhandhanissitaṃ ekaṃ dhammaṃ kathessāmī”ti cintetvā parivāretvā nisinne bhikkhū āmantesi.

♦ mahantaṃ pheṇapiṇḍanti uṭṭhānuṭṭhāne badarapakkappamāṇato paṭṭhāya anusotāgamanena anupubbena pavaḍḍhitvā pabbatakūṭamattaṃ jātaṃ, yattha udakasappādayo anekapāṇayo nivasanti, evarūpaṃ mahantaṃ pheṇapiṇḍaṃ. āvaheyyāti āhareyya. so panāyaṃ pheṇapiṇḍo uṭṭhitaṭṭhānepi bhijjati, thokaṃ gantvāpi, ekadviyojanādivasena dūraṃ gantvāpi, antarā pana abhijjantopi mahāsamuddaṃ patvā avassameva bhijjati. nijjhāyeyyāti olokeyya. yoniso upaparikkheyyāti kāraṇena upaparikkheyya. kiñhi siyā, bhikkhave, pheṇapiṇḍe sāroti, bhikkhave, pheṇapiṇḍamhi sāro nāma kiṃ bhaveyya? vilīyitvā viddhaṃseyyeva.

♦ evameva khoti yathā pheṇapiṇḍo nissāro, evaṃ rūpampi niccasāradhuvasārāttasāravirahena nissārameva. yathā ca so “iminā pattaṃ vā thālakaṃ vā karissāmī”ti gahetuṃ na sakkā, gahitopi tamatthaṃ na sādheti, bhijjati eva, evaṃ rūpampi niccanti vā dhuvanti vā ahanti vā mamanti vā gahetuṃ na sakkā, gahitampi na tathā tiṭṭhati, aniccaṃ dukkhaṃ anattā asubhaññeva hotīti evaṃ pheṇapiṇḍasadisameva hoti. yathā vā pana pheṇapiṇḍo chiddāvachiddo anekasandhighaṭito bahūnaṃ udakasappādīnaṃ pāṇānaṃ āvāso, evaṃ rūpampi chiddāvachiddaṃ anekasandhighaṭitaṃ, kulavasenevettha asīti kimikulāni vasanti, tadeva tesaṃ sūtigharampi vaccakuṭipi gilānasālāpi susānampi, na te aññattha gantvā gabbhavuṭṭhānādīni karonti, evampi pheṇapiṇḍasadisaṃ.

♦ yathā ca pheṇapiṇḍo ādito badarapakkamatto hutvā anupubbena pabbatakūṭamattopi hoti, evaṃ rūpampi ādito kalalamattaṃ hutvā anupubbena byāmamattampi gomahiṃsahatthiādīnaṃ vasena pabbatakūṭādimattaṃ hoti macchakacchapādīnaṃ vasena anekayojanasatapamāṇampi, evampi pheṇapiṇḍasadisaṃ. yathā ca pheṇapiṇḍo uṭṭhitamattopi bhijjati, thokaṃ gantvāpi, dūraṃ gantvāpi, samuddaṃ patvā pana avassameva bhijjati, evamevaṃ rūpampi kalalabhāvepi bhijjati abbudādibhāvepi, antarā pana abhijjamānampi vassasatāyukānaṃ vassasataṃ patvā avassameva bhijjati, maraṇamukhe cuṇṇavicuṇṇaṃ hoti, evampi pheṇapiṇḍasadisaṃ.

♦ kiñhi siyā, bhikkhave, vedanāya sārotiādīsu vedanādīnaṃ pubbuḷādīhi evaṃ sadisatā veditabbā. yathā hi pubbuḷo asāro evaṃ vedanāpi. yathā ca so abalo agayhūpago, na sakkā taṃ gahetvā phalakaṃ vā āsanaṃ vā kātuṃ, gahitopi bhijjateva, evaṃ vedanāpi abalā agayhūpagā, na sakkā niccāti vā dhuvāti vā gahetuṃ, gahitāpi na tathā tiṭṭhati, evaṃ agayhūpagatāyapi vedanā pubbuḷasadisā. yathā pana tasmiṃ tasmiṃ udakabindumhi pubbuḷo uppajjati ceva bhijjati ca, na ciraṭṭhitiko hoti, evaṃ vedanāpi uppajjati ceva bhijjati ca, na ciraṭṭhitikā hoti. ekaccharakkhaṇe koṭisatasahassasaṅkhā uppajjitvā nirujjhati. yathā ca pubbuḷo udakatalaṃ, udakabinduṃ, udakajallaṃ, saṅkaḍḍhitvā puṭaṃ katvā gahaṇavātañcāti cattāri kāraṇāni paṭicca uppajjati, evaṃ vedanāpi vatthuṃ ārammaṇaṃ kilesajallaṃ phassasaṅghaṭṭanañcāti cattāri kāraṇāni paṭicca uppajjati. evampi vedanā pubbuḷasadisā.

♦ saññāpi asārakaṭṭhena marīcisadisā. tathā agayhūpagaṭṭhena. na hi sakkā taṃ gahetvā pivituṃ vā nhāyituṃ vā bhājanaṃ vā pūretuṃ. apica yathā marīci vipphandati, sañjātūmivegā viya khāyati, evaṃ nīlasaññādibhedā saññāpi nīlādianubhavanatthāya phandati vipphandati. yathā ca marīci mahājanaṃ vippalambheti “puṇṇavāpi viya puṇṇanadī viya dissatī”ti vadāpeti, evaṃ saññāpi vippalambheti, “idaṃ nīlakaṃ subhaṃ sukhaṃ niccan”ti vadāpeti. pītakādīsupi eseva nayo. evaṃ saññā vippalambhanenāpi marīcisadisā.

♦ akukkukajātanti anto asañjātaghanadaṇḍakaṃ. saṅkhārāpi asārakaṭṭhena kadalikkhandhasadisā, tathā agayhūpagaṭṭhena. yatheva hi kadalikkhandhato kiñci gahetvā na sakkā gopānasiādīnaṃ atthāya upanetuṃ, upanītampi na tathā hoti, evaṃ saṅkhārāpi na sakkā niccādivasena gahetuṃ, gahitāpi na tathā honti. yathā ca kadalikkhandho bahupattavaṭṭisamodhāno hoti, evaṃ saṅkhārakkhandho bahudhammasamodhāno. yathā ca kadalikkhandho nānālakkhaṇo. aññoyeva hi bāhirāya pattavaṭṭiyā vaṇṇo, añño tato abbhantarābbhantarānaṃ, evameva saṅkhārakkhandhepi aññadeva phassassa lakkhaṇaṃ, aññā cetanādīnaṃ, samodhānetvā pana saṅkhārakkhandhova vuccatīti evampi saṅkhārakkhandho kadalikkhandhasadiso.

♦ cakkhumā purisoti maṃsacakkhunā ceva paññācakkhunā cāti dvīhi cakkhūhi cakkhumā. maṃsacakkhumpi hissa parisuddhaṃ vaṭṭati apagatapaṭalapiḷakaṃ, paññācakkhumpi asārabhāvadassanasamatthaṃ. viññāṇampi asārakaṭṭhena māyāsadisaṃ, tathā agayhūpagaṭṭhena. yathā ca māyā ittarā lahupaccupaṭṭhānā, evaṃ viññāṇaṃ. tañhi tatopi ittaratarañceva lahupaccupaṭṭhānatarañca. teneva hi cittena puriso āgato viya gato viya ṭhito viya nisinno viya hoti. aññadeva ca āgamanakāle cittaṃ, aññaṃ gamanakālādīsu. evampi viññāṇaṃ māyāsadisaṃ. māyā ca mahājanaṃ vañceti, yaṃkiñcideva “idaṃ suvaṇṇaṃ rajataṃ muttā”ti gāhāpeti, viññāṇampi mahājanaṃ vañceti. teneva hi cittena āgacchantaṃ viya gacchantaṃ viya ṭhitaṃ viya nisinnaṃ viya katvā gāhāpeti. aññadeva ca āgamane cittaṃ, aññaṃ gamanādīsu. evampi viññāṇaṃ māyāsadisaṃ.

♦ bhūripaññenāti saṇhapaññena ceva vipulavitthatapaññena ca. āyūti jīvitindriyaṃ. usmāti kammajatejodhātu. parabhattanti nānāvidhānaṃ kimigaṇādīnaṃ bhattaṃ hutvā. etādisāyaṃ santānoti etādisī ayaṃ paveṇī matakassa yāva susānā ghaṭṭīyatīti. māyāyaṃ bālalāpinīti yvāyaṃ viññāṇakkhandho nāma, ayaṃ bālamahājanalapāpanikamāyā nāma. vadhakoti dvīhi kāraṇehi ayaṃ khandhasaṅkhāto vadhako aññamaññaghātanenapi, khandhesu sati vadho paññāyatītipi. ekā hi pathavīdhātu bhijjamānā sesadhātuyo gahetvāva bhijjati, tathā āpodhātuādayo. rūpakkhandho ca bhijjamāno arūpakkhandhe gahetvāva bhijjati, tathā arūpakkhandhesu vedanādayo saññādike. cattāropi cete vatthurūpanti evaṃ aññamaññavadhanenettha vadhakatā veditabbā. khandhesu pana sati vadhabandhanacchedādīni sambhavanti, evaṃ etesu sati vadhabhāvatopi vadhakatā veditabbā. sabbasaṃyoganti sabbaṃ dasavidhampi saṃyojanaṃ. accutaṃ padanti nibbānaṃ. tatiyaṃ.

Người dân Ayujjhapura, thấy Đức Thế Tôn đang đi bộ với số lượng không đếm được của các Tỳ khưu, đã đến thành phố của họ. Họ đã xây dựng một tịnh xá cho Đức Thế Tôn tại một nơi đầy cây lớn bên bờ sông Hằng. Đức Thế Tôn đang cư trú ở đó. Do đó, đã nói rằng "bên bờ sông Hằng." Tại đó, Đức Thế Tôn đã nói chuyện với các Tỳ khưu. Khi đang sống trong tịnh xá đó, vào buổi chiều, Đức Thế Tôn rời khỏi phòng hương và ngồi trên ghế Phật đã chuẩn bị bên bờ sông Hằng. Nhìn thấy một đám bọt lớn đang trôi trên sông Hằng, Đức Thế Tôn nghĩ, "Ta sẽ thuyết pháp về một pháp dựa trên năm uẩn trong giáo lý của ta." Ngài đã nói với các Tỳ khưu đang ngồi xung quanh.

“Mahantaṃ pheṇapiṇḍa” có nghĩa là khối bọt nổi, từ kích thước của một quả badara (trái cây nhỏ) trở lên, tăng dần kích thước theo dòng chảy của sông, và trở thành lớn như một ngọn núi, nơi mà nhiều sinh vật như rắn nước sinh sống. Đám bọt lớn như vậy. “Āvaheyyāti” có nghĩa là mang lại. bọt nổi này, dù ở nơi nào nó cũng vỡ, dù đi được một khoảng cách ngắn, hay đi xa, hoặc ngay cả khi nó đến biển lớn, nó cũng vỡ. “Nijjhāyeyyāti” có nghĩa là nhìn vào. “Yoniso upaparikkheyyāti” có nghĩa là xem xét theo lý do. “Kiñhi siyā, bhikkhave, pheṇapiṇḍe sāroti” có nghĩa là, các Tỳ khưu, bọt nổi này có gì có thực chất không? bọt nổi này sẽ tan rã và vỡ nát.

“Evameva khoti” có nghĩa là giống như bọt nổi không có thực chất, hình dạng cũng vậy, vì không có thực chất, không có gì bền vững, nó cũng không phải là của ta. Giống như bọt nổi không thể được nắm bắt để làm đĩa hoặc bát, dù có nắm bắt, nó cũng không giữ nguyên, nó sẽ vỡ. Hình dạng cũng vậy, không thể nắm bắt để nghĩ rằng nó là vĩnh viễn, bền vững, của ta, của ta, dù có nắm bắt, nó cũng không giữ nguyên, nó là vô thường, đau khổ, vô ngã, không đẹp đẽ. Hình dạng cũng giống như đám bọt. Giống như đám bọt có nhiều lỗ và các phần ghép lại với nhau, là nơi sinh sống của nhiều sinh vật như rắn nước, hình dạng cũng có nhiều lỗ và các phần ghép lại với nhau, và cũng có nhiều vi khuẩn sống ở đó. Nó cũng là nơi sinh sống của các vi khuẩn, nhà vệ sinh, bệnh viện và nhà xác. Chúng không đi nơi khác để sinh sản hoặc chết. Giống như bọt nổi vỡ ngay từ khi nó xuất hiện, đi một đoạn ngắn, hoặc đi xa, hoặc khi đến biển, nó chắc chắn sẽ vỡ, hình dạng cũng vậy, từ lúc là bùn lầy, qua các giai đoạn như bọt, nó cũng vỡ trong quá trình đi, và chắc chắn sẽ vỡ khi đạt đến tuổi trăm năm. Sắc uẩn cũng giống như bọt nổi.

Các cảm thọ cũng giống như bong bóng nước, không có thực chất. Giống như bong bóng nước không thể nắm bắt để làm đĩa hoặc ghế, dù có nắm bắt, nó cũng sẽ vỡ. Các cảm giác cũng không thể nắm bắt để nghĩ rằng chúng là vĩnh viễn hoặc bền vững, dù có nắm bắt, chúng cũng không giữ nguyên. Các cảm giác cũng giống như bong bóng nước, xuất hiện và vỡ ngay lập tức, không tồn tại lâu dài. Trong một khoảnh khắc, hàng trăm ngàn cảm giác xuất hiện và biến mất. Giống như bong bóng nước, các cảm giác xuất hiện do bốn nguyên nhân: nước, bề mặt nước, giọt nước, và gió thổi, cảm giác cũng xuất hiện do bốn nguyên nhân: thân, đối tượng, sự chạm và sự va chạm của các xúc giác. Các cảm thọ cũng giống như bong bóng nước.

Tưởng uẩn cũng giống như ảo ảnh, không có thực chất. Không thể nắm bắt để uống, tắm hoặc đổ đầy vào một vật chứa. Giống như ảo ảnh xuất hiện như một hồ đầy nước, các nhận thức cũng xuất hiện như các màu sắc được trải nghiệm. Giống như ảo ảnh làm người ta lầm tưởng rằng nó là nước đầy, các nhận thức cũng làm người ta lầm tưởng rằng nó là thực, đẹp và vĩnh viễn. Các nhận thức cũng giống như ảo ảnh.

Các hành cũng giống như thân cây chuối, không có thực chất. Giống như thân cây chuối không thể nắm bắt để làm dây thừng hoặc các vật dụng khác, dù có nắm bắt, nó cũng không giữ nguyên, các hành động cũng không thể nắm bắt để nghĩ rằng chúng là vĩnh viễn, dù có nắm bắt, chúng cũng không giữ nguyên. Giống như thân cây chuối được tạo thành từ nhiều lớp, các hành động cũng được tạo thành từ nhiều yếu tố như xúc và tư. Hành uẩn cũng giống như thân cây chuối.

Giống trò ảo thuật chỉ là sự khéo tạo bởi ảo thuật gia. Sự cảm nhận làm người ta lầm tưởng rằng cảnh là thực, đẹp và vĩnh viễn. Với người với đôi mắt sắc bén nhìn thấy sự thực. Thức uẩn cũng giống như ảo thuật, không có thực chất.