Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KHÔNG CÓ GIẢI THOÁT THÌ TU LÀM GÌ? - Kinh Āḷavikā (Āḷavikāsuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KHÔNG CÓ GIẢI THOÁT THÌ TU LÀM GÌ? - Kinh Āḷavikā (Āḷavikāsuttaṃ)

Tuesday, 05/04/2022, 18:31 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 5.4.2022

 


KHÔNG CÓ GIẢI THOÁT THÌ TU LÀM GÌ?

Kinh Āḷavikā (Āḷavikāsuttaṃ)

(CHƯƠNG V. TƯƠNG ƯNG TỶ KHEO NI) (S.i, 128)

Nỗ lực tu tập chỉ có giá trị khi có quả chứng giác ngộ giải thoát. Bằng cách nào đó người tu cần có nhận thức về cứu cánh của đời sống phạm hạnh. Nhờ như vậy mới có cuộc sống tương thích với những gì hướng tới. Trong bài kinh nầy Ác ma là một chúng sanh thật. Nhưng phiền não ma cũng thường khiến tâm người tu bị chao đảo vì nghi hoặc đối với mục đích chân thực của sự tu tập. Phải với tri tuệ do học hỏi giáo pháp hay do tu tập mới đủ sáng suốt để sống đời phạm hạnh viễn ly.

Evaṃ me sutaṃ

Tôi được nghe như vầy:

ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Thuở ấy Đức Thế Tôn trú ở Sāvatthi, Kỳ Viên, ngôi già lam của ông Anāthapiṇḍika.

Atha kho āḷavikā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami vivekatthinī.

Vào buổi sáng tỳ khưu ni Alavikā đắp y, cầm y bình bát và y kép đi vào Sāvatthi khất thực. Sau khi khất thực và thọ trai xong vị ấy trên đường đi đến rừng Andha để tịnh mặc viễn ly.

Atha kho māro pāpimā āḷavikāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo yena āḷavikā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āḷavikaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Rồi Ác ma muốn làm tỳ khưu ni Alavikā run sợ, hốt hoảng, kinh khiếp để tôn giả từ bỏ tịnh mặc viễn ly đã nói lên kệ ngôn:

‘‘Natthi nissaraṇaṃ loke, kiṃ vivekena kāhasi;

Bhuñjassu kāmaratiyo, māhu pacchānutāpinī’’ti.

Ðời không có xuất ly,

Sống viễn ly làm chi?

Hãy vui hưởng dục lạc,

Sau nầy chẳng tiếc chi.

Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti?

Tỷ khưu ni Alavikā tự nghĩ: "Ai đã nói lên kệ ngôn này? Người hay phi nhân?"

Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti.

Tỷ khưu ni Alavikā suy xét: "Chính Ác ma khiến ta run sợ, hốt hoảng, kinh khiếp để từ bỏ tịnh mặc viễn ly đã nói lên kệ ngôn".

Atha kho āḷavikā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi –

Tỷ khưu ni Alavikā biết được: "Ðấy là Ác ma", liền nói kệ ngôn:

‘‘Atthi nissaraṇaṃ loke, paññāya me suphussitaṃ;

Pamattabandhu pāpima, na tvaṃ jānāsi taṃ padaṃ.

‘‘Sattisūlūpamā kāmā, khandhāsaṃ adhikuṭṭanā;

Yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi, arati mayha sā ahū’’ti.

Có xuất ly ở đời,

Ta chứng với trí tuệ

Hỡi Quyến thuộc Phóng túng!

Sao ngươi hiểu pháp ấy?

Khát ái như gươm giáo

Các uẩn như đầu đài

Ngươi gọ là dục lạc

Ta gọi là bất lạc.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ āḷavikā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

Ác ma biết được: "Tỷ khưu ni Alavikā đã biết ta” phiền muộn và thất vọng biến mất ngay chỗ ấy.

‘‘Natthi nissaraṇaṃ loke = Không có xuất ly ở đời

kiṃ vivekena kāhasi = Sống viễn ly làm gì?

Bhuñjassu kāmaratiyo = Hãy vui hưởng dục lạc

māhu pacchānutāpinī’’ti = Để không hối hận về sau

‘‘Atthi nissaraṇaṃ loke = Có xuất ly ở đời

paññāya me suphussitaṃ = Ta tự thân trãi nghiệm với trí tuệ

Pamattabandhu pāpima = Hỡi Ác ma bà con của phóng túng

na tvaṃ jānāsi taṃ padaṃ = Ngươi không hiểu pháp ấy

‘‘Sattisūlūpamā kāmā = Dục lạc như gươm giáo

khandhāsaṃ adhikuṭṭanā = Các uẩn như thớt chém đầu đài

Yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi = Ngươi gọi đó là dục lạc

arati mayha sā ahū’’ti = Ta nói đó là bất lạc

Tỷ khưu ni Alavikā là tôn giả Selā. Vì là công chúa con vua Āḷavaka nên được gọi là Āḷavikā.

Rừng Andha – hay Rừng Người Mù (An Đà Lâm) có tên như vậy vì sau khi Đức Phật Kassapa viên tịch một thiện nam tên Yasodhara mang vàng bạc đến đây để xây một tháp thờ Xá lợi Phật. Vị thiện nam nầy bị bọn cướp phục kích cướp vàng bạc và làm mù mắt. Bọn cướp bị hiện báo nghiệp ngay sau đó đều bị mù mắt và đến nơi nầy sinh sống nên khu rừng có tên như vậy. Khu rừng cách Sāvatthi ba cây số về phía nam được các cấm vệ quân canh gác.

Theo Sớ giải từ ngữ xuất ly (nissaraṇa) ở đây chỉ cho niết bàn. Theo Hậu Sớ Giải thì trí tuệ ở đây chỉ cho tuệ giác trong các tâm đạo và tâm quả.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

1. Āḷavikāsuttaṃ [Mūla]

162. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āḷavikā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami vivekatthinī. Atha kho māro pāpimā āḷavikāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo yena āḷavikā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āḷavikaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Natthi nissaraṇaṃ loke, kiṃ vivekena kāhasi;

Bhuñjassu kāmaratiyo, māhu pacchānutāpinī’’ti.

Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho āḷavikā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi –

‘‘Atthi nissaraṇaṃ loke, paññāya me suphussitaṃ [suphassitaṃ (sī. pī.)]; Pamattabandhu pāpima, na tvaṃ jānāsi taṃ padaṃ.

‘‘Sattisūlūpamā kāmā, khandhāsaṃ adhikuṭṭanā;

Yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi, arati mayha sā ahū’’ti.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ āḷavikā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

1. Āḷavikāsuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

162. Bhikkhunīsaṃyuttassa paṭhame āḷavikāti āḷaviyaṃ jātā āḷavinagaratoyeva ca nikkhamma pabbajitā. Andhavananti kassapasammāsambuddhassa cetiye navakammatthāya dhanaṃ samādapetvā āgacchantassa yasodharassa nāma dhammabhāṇakassa ariyapuggalassa akkhīni uppāṭetvā tattheva akkhibhedappattehi pañcahi corasatehi nivutthattā tato paṭṭhāya ‘‘andhavana’’nti saṅkhaṃ gataṃ vanaṃ. Taṃ kira sāvatthito dakkhiṇapasse gāvutamatte hoti rājārakkhāya guttaṃ. Tattha pavivekakāmā bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gacchanti. Tasmā ayampi kāyavivekatthinī yena taṃ vanaṃ, tenupasaṅkami.

Nissaraṇanti nibbānaṃ. Paññāyāti paccavekkhaṇañāṇena. Na tvaṃ jānāsi taṃ padanti tvaṃ etaṃ nibbānapadaṃ vā nibbānagāmimaggapadaṃ vā na jānāsi. Sattisūlūpamāti vinivijjhanatthena sattisūlasadisā. Khandhāsaṃ adhikuṭṭanāti khandhā tesaṃ adhikuṭṭanabhaṇḍikā. Paṭhamaṃ.