Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || KHỔ LỤY VÌ CHỦ QUAN - Kinh Con Mèo (Biḷārasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || KHỔ LỤY VÌ CHỦ QUAN - Kinh Con Mèo (Biḷārasuttaṃ)

Wednesday, 27/12/2023, 19:11 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 27.12.2023

KHỔ LỤY VÌ CHỦ QUAN

Kinh Con Mèo (Biḷārasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương XI. Tương Ưng Thí Dụ (S,ii,270)

Có những sự kiện trọng đại trong cuộc sống bắt nguồn từ sự khinh suất nhất thời. Mỗi người tu tập đều cần luôn tự nhắc về bản chất phiền não, dễ cảm nhiễm của nội tâm. Những bất cẩn lơ đễnh, thường dẫn đến cái giá cao phải trả. Đức Phật khuyên những tu sĩ nên hiểu rõ vai trò của một chiến sĩ, không thể thiếu cảnh giác giữa trận mạc. Sự chủ quan dẫn đến thất bại hại thân là câu chuyện muôn thuở. Chính vì vậy, bằng tâm bi mẫn vô lượng, Đức Phật thường nhắc nhở những đứa con của Ngài, lên đường bằng thái độ tỉnh thức, cẩn trọng.

Kinh văn

Sāvatthiyaṃ viharati. Tena kho pana samayena aññataro bhikkhu ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘‘māyasmā ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjī’’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno na viramati. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, aññataro bhikkhu ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘māyasmā ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjī’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno na viramatī’’ti.

... Ngự ở Sāvatthi.

Bấy giờ, có một tỳ khưu lui tới các gia đình cư sĩ với quá nhiều thì giờ. Những tỳ khưu khác nói với vị ấy: “Hiền giả không nên lui tới với các gia đình cư sĩ quá nhiều thì giờ như vậy”. Nghe nói thế, vị tỳ khưu tâm không phục thiện.

Rồi một số tỳ khưu đi đến Đức Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi một bên. Các vị ấy bạch với Đức Thế Tôn:

-- Bạch Đức Thế Tôn, có một tỳ khưu lui tới các gia đình cư sĩ với quá nhiều thì giờ. Những tỳ khưu khác nói với vị ấy: “Hiền giả không nên lui tới với các gia đình cư sĩ quá nhiều thì giờ như vậy”. Nghe nói thế vị tỳ khưu tâm không phục thiện.

‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, biḷāro sandhisamalasaṅkaṭīre ṭhito ahosi mudumūsiṃ maggayamāno – ‘yadāyaṃ mudumūsi gocarāya pakkamissati, tattheva naṃ gahetvā khādissāmī’ti. Atha kho so, bhikkhave, mudumūsi gocarāya pakkāmi. Tamenaṃ biḷāro gahetvā sahasā saṅkhāditvā ajjhohari. Tassa so mudumūsi antampi khādi, antaguṇampi khādi. So tatonidānaṃ maraṇampi nigacchi maraṇamattampi dukkhaṃ.

-- Này chư Tỳ Khưu, thuở xưa, có con mèo đứng tại đống rác cạnh miệng cống, nghĩ rằng: Nếu có con chuột nhắt nào kiếm ăn, chạy ngang đây ta sẽ bắt ăn thịt”. Rồi một con chuột nhắt chạy ra khỏi hang đi tìm thức ăn. Con mèo vồ lấy và nuốt sống con chuột một cách vội vã. Con chuột nhắt đã cắn ruột và nội tạng con mèo, khiến con mèo đau đớn thảm thiết và chết.

‘‘Evameva kho, bhikkhave, idhekacco bhikkhu pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisati arakkhiteneva kāyena arakkhitāya vācāya arakkhitena cittena, anupaṭṭhitāya satiyā, asaṃvutehi indriyehi. So tattha passati mātugāmaṃ dunnivatthaṃ vā duppārutaṃ vā. Tassa mātugāmaṃ disvā dunnivatthaṃ vā duppārutaṃ vā rāgo cittaṃ anuddhaṃseti. So rāgānuddhaṃsena cittena maraṇaṃ vā nigacchati maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Maraṇañhetaṃ, bhikkhave, ariyassa vinaye yo sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattati. Maraṇamattañhetaṃ, bhikkhave, dukkhaṃ yadidaṃ aññataraṃ saṃkiliṭṭhaṃ āpattiṃ āpajjati. Yathārūpāya āpattiyā vuṭṭhānaṃ paññāyati. Tasmātiha, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘rakkhiteneva kāyena rakkhitāya vācāya rakkhitena cittena, upaṭṭhitāya satiyā, saṃvutehi indriyehi gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisissāmā’ti. Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti.

Này chư Tỳ Khưu, ở đây cũng giống như vậy, một số tỳ khưu vào buổi sáng đắp y, cầm bát và y (kép) đi vào làng hay phố thị khất thực. Những vị này với thân không phòng hộ, lời nói không phòng hộ, tâm ý không phòng hộ, chánh niệm không an trú, các căn không chế ngự.

Khi những vị này nhìn thấy những phụ nữ ăn mặc không kín đáo, hay thiếu đoan trang thì lòng dục sanh khởi. Với dục vọng ngự trị nội tâm, những vị này đi đến thống khổ như chết và mạng chung. Cái chết ở đây trong đạo lý của thánh nhân là sự từ bỏ tu học và hoàn tục. Sự đau khổ thống thiết, được hiểu là vị phạm uế tội có thể sửa trị bằng sự cấm phòng.

Này chư Tỳ khưu, do vậy các thầy cần tu tập như sau: “Chúng ta đi vào làng hay phố thị khất thực với thân phòng hộ, lời nói phòng hộ, tâm ý phòng hộ, chánh niệm an trú, các căn chế ngự.

Này chư Tỳ khưu, các thầy cần tu tập như vậy.

Chú Thích

Đoạn kinh “dukkhaṃ yadidaṃ aññataraṃ saṃkiliṭṭhaṃ āpattiṃ āpajjati yathārūpāya āpattiyā vuṭṭhānaṃ paññāyati. (Sự đau khổ thống thiết được hiểu là vị phạm uế tội có thể sửa trị bằng sự cấm phòng)” chỉ cho tội tăng tàng đối lập với bất cộng trụ theo giới bổn.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn

10. Biḷārasuttaṃ

232. Sāvatthiyaṃ viharati. Tena kho pana samayena aññataro bhikkhu ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘‘māyasmā ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjī’’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno na viramati. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, aññataro bhikkhu ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjati. Tamenaṃ bhikkhū evamāhaṃsu – ‘māyasmā ativelaṃ kulesu cārittaṃ āpajjī’ti. So bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno na viramatī’’ti.

‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, biḷāro sandhisamalasaṅkaṭīre ṭhito ahosi mudumūsiṃ maggayamāno – ‘yadāyaṃ mudumūsi gocarāya pakkamissati, tattheva naṃ gahetvā khādissāmī’ti. Atha kho so, bhikkhave, mudumūsi gocarāya pakkāmi. Tamenaṃ biḷāro gahetvā sahasā saṅkhāditvā [saṅkharitvā (pī. ka.), maṃsaṃ khāditvā (syā. kaṃ.), asaṃkhāditvā (katthaci)] ajjhohari. Tassa so mudumūsi antampi khādi, antaguṇampi khādi. So tatonidānaṃ maraṇampi nigacchi maraṇamattampi dukkhaṃ.

‘‘Evameva kho, bhikkhave, idhekacco bhikkhu pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisati arakkhiteneva kāyena arakkhitāya vācāya arakkhitena cittena, anupaṭṭhitāya satiyā, asaṃvutehi indriyehi. So tattha passati mātugāmaṃ dunnivatthaṃ vā duppārutaṃ vā. Tassa mātugāmaṃ disvā dunnivatthaṃ vā duppārutaṃ vā rāgo cittaṃ anuddhaṃseti. So rāgānuddhaṃsena cittena maraṇaṃ vā nigacchati maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Maraṇañhetaṃ, bhikkhave, ariyassa vinaye yo sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattati. Maraṇamattañhetaṃ, bhikkhave, dukkhaṃ yadidaṃ aññataraṃ saṃkiliṭṭhaṃ āpattiṃ āpajjati. Yathārūpāya āpattiyā vuṭṭhānaṃ paññāyati. Tasmātiha, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘rakkhiteneva kāyena rakkhitāya vācāya rakkhitena cittena, upaṭṭhitāya satiyā, saṃvutehi indriyehi gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisissāmā’ti. Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti. Dasamaṃ.

10. Biḷārasuttavaṇṇanā

232. Dasame sandhisamalasaṃkaṭīreti ettha sandhīti bhinnagharānaṃ sandhi, samaloti gāmato gūthanikkhamanamaggo, saṃkaṭīranti saṅkāraṭṭhānaṃ. Mudumūsinti mudukaṃ mūsikaṃ. Vuṭṭhānaṃ paññāyatīti desanā paññāyati. Dasamaṃ.