- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 15.12.2021
Khi Tín Ngưỡng Thành Tà Mị
Kinh Tế Đàn (Yaññasuttaṃ)
(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ NHẤT) (S.i, 75)
Kinh bổn sanh số 314 và Tích Chuyện Kinh Pháp Cú II, 1-12 kể là duyên sự bài kinh nầy với nhiều chi tiết. Bấy giờ vua Pasenadi với sự ham muốn bất chính định giết một thường dân nhưng bất thành. Liên tiếp theo đó nhà vua nằm mộng thấy và nghe những âm thanh kỳ lạ khiến tâm thần hoảng hốt. Vua đem giấc mộng thuật lại cho những giáo sĩ bà la môn trong triều. Những bà la môn khuyên nên tổ chức đàn tràng chẩn tế theo cách đại tế đàn. Với cách tế tự đặc biệt nầy nhiều sinh vật bị giết để hiến cúng. Trong thời gian chuẩn bị tế tự có rất nhiều sự ta thán từ dân chúng bị bắt làm tạp dịch. Sau nầy nhờ nghe lời khuyên của hoàng hậu Mallikā nhà vua tìm đến thỉnh ý Đức Phật và không tổ chức tế đàn nữa.
Đức Phật không phủ nhận giá trị của tế tự miễn là trong đó không có sát sanh và là sự cúng tế mang tánh cách truyền thống gia đình. Tế tự là nét văn hoá đẹp mà còn mang giá trị tinh thần. Nhưng phải biết suy xét để tránh những tính ngưỡng dân gian mang với những cỗ hủ sát sanh hại vật.
Bản dịch của HT Thích Minh Châu | Bản hiệu đính | |
Sāvatthinidānaṃ. Tại Sāvatthī. |
||
Tena kho pana samayena rañño pasenadissa kosalassa mahāyañño paccupaṭṭhito hoti, pañca ca usabhasatāni pañca ca vacchatarasatāni pañca ca vacchatarisatāni pañca ca ajasatāni pañca ca urabbhasatāni thūṇūpanītāni honti yaññatthāya. Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala tổ chức một đại tế đàn. Năm trăm con bò đực, năm trăm con bò con đực, năm trăm con bò con cái, năm trăm con dê, và năm trăm con cừu (urabbha) được dắt đến trụ tế lễ để làm lễ tế đàn. |
||
Yepissa te honti dāsāti vā pessāti vā kammakarāti vā, tepi daṇḍatajjitā bhayatajjitā assumukhā rudamānā parikammāni karonti. Và có những người nô tỳ, hay những người phục dịch, hay những người lao động, bị hình phạt thúc đẩy, bị sợ hãi thúc đẩy,với nước mắt đầy mặt, than khóc và làm các công việc chuẩn bị cho lễ tế đàn. |
||
Atha kho sambahulā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pavisiṃsu. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinno kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – Rồi rất nhiều Tỷ-kheo, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực; khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: |
||
‘‘idha, bhante, rañño pasenadissa kosalassa mahāyañño paccupaṭṭhito hoti, pañca ca usabhasatāni pañca ca vacchatarasatāni pañca ca vacchatarisatāni pañca ca ajasatāni pañca ca urabbhasatāni thūṇūpanītāni honti yaññatthāya. Yepissa te honti dāsāti vā pessāti vā kammakarāti vā, tepi daṇḍatajjitā bhayatajjitā assumukhā rudamānā parikammāni karontī’’ti. -- Ở đây, bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala tổ chức một đại lễ tế đàn. Năm trăm con bò đực, năm trăm con bò con đực, năm trăm con bò con cái, năm trăm con dê, năm trăm con cừu được dắt đến trụ tế lễ để làm lễ tế đàn. Và có những người nô tỳ, hay những người phục dịch, hay những người lao công, bị hình phạt thúc đẩy, bị sợ hãi thúc đẩy, với nước mắt đầy mặt và than khóc, làm các công việc chuẩn bị cho lễ tế đàn. |
||
Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu rõ ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ: |
||
‘‘Assamedhaṃ purisamedhaṃ, sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggaḷhaṃ; Mahāyaññā mahārambhā, na te honti mahapphalā. |
Lễ cúng ngựa, cúng người, Quăng cọc, rượu chiến thắng, Không chốt cửa, đại lễ, Chúng không phải quả lớn. |
Lễ hiến cúng thần linh, Giết ngựa, giết mạng người, Lễ Sammāpāsaṃ, Lễ Vājapeyyaṃ, Lễ Niraggaḷhaṃ, Với bao sự giết hại, Không có quả phước lớn. |
‘‘Ajeḷakā ca gāvo ca, vividhā yattha haññare; Na taṃ sammaggatā yaññaṃ, upayanti mahesino. |
Chỗ nào có giết hại, Dê, cừu và trâu bò, Lễ tế đàn như vậy, Bậc Ðại Thánh không đi. |
Bậc thánh với chánh hạnh, Không tham dự tế đàn, Với bao sự giết chóc, Dê, cừu và trâu bò. |
‘‘Ye ca yaññā nirārambhā, yajanti anukulaṃ sadā; Ajeḷakā ca gāvo ca, vividhā nettha haññare; Etaṃ sammaggatā yaññaṃ, upayanti mahesino. |
Tế đàn không rộn ràng, Cúng dường được thường hằng, Không có sự giết hại, Dê, cừu và trâu bò, Lễ tế đàn như vậy, Bậc Ðại Thánh sẽ đi. |
Tế tự không sát hại, Những dê, cừu, trâu bò, Và những sinh vật khác, Lễ truyền thống gia tộc, Với tế tự như vậy, Bậc thánh luôn tham dự. |
‘‘Etaṃ yajetha medhāvī, eso yañño mahapphalo; Etañhi yajamānassa, seyyo hoti na pāpiyo; Yañño ca vipulo hoti, pasīdanti ca devatā’’ti. |
Bậc trí tế như vậy, Tế đàn vậy, quả lớn. Ai tế lễ như vậy, Chỉ tốt hơn, không xấu, Là tế đàn vĩ đại, Ðược chư Thiên hoan hỷ. |
Bậc trí luôn tế tự, Mang lại kết quả lớn, Ai cúng tế như vậy, Chỉ tốt chứ không xấu, Là phước sự lớn lao, Chư thiên cũng hoan hỷ. |
“Assamedhaṃ purisamedhaṃ | hiến tế bằng ngựa, bằng người |
sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggaḷhaṃ |
tế đàn sammāpāsaṃ, tế đàn vājapeyyaṃ, tế đàn niraggaḷhaṃ |
Mahāyaññā mahārambhā |
đại tế đàn mahārambhā |
na te honti mahapphalā |
không có quả lớn |
“Ajeḷakā ca gāvo ca |
bậc thánh với chánh hạnh |
vividhā yattha haññare aa taṃ sammaggatā yaññaṃ upayanti mahesino |
không tham dự sự cúng tế mà ở đó dê, cừu, trâu bò và các sinh vật bị sát hại. |
“Ye ca yaññā nirārambhā |
Tế đàn nào không có sát hại |
yajanti anukulaṃ sadā |
được luôn duy trì bởi truyền thống gia đình |
Ajeḷakā ca gāvo ca vividhā nettha haññare |
tế tự không có sự sát hại dê, cừu, trâu bò và các sinh vật khác |
Etaṃ sammaggatā yaññaṃ upayanti mahesino |
Bậc thánh với chánh hạnh tham dự tế đàn đó |
‘‘Etaṃ yajetha medhāvī | Bậc trí cúng tế như vầy |
eso yañño mahapphalo | tế tự mang lại quả lớn |
Etañhi yajamānassa | sự cúng tế như vậy |
seyyo hoti na pāpiyo | chỉ có tốt chứ không xấu |
Yañño ca vipulo hoti | là tế tự vĩ đại |
pasīdanti ca devatā’’ti | được chư thiên hoan hỷ |
Theo sớ giải thì các tế đàn sammāpāsaṃ, tế đàn vājapeyyaṃ, tế đàn niraggaḷhaṃ, đại tế đàn mahārambhā bắt nguồn từ sự sai lạc của các bà la môn thuở xưa khi giải thích về tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, bình đẳng)
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Hiệu đính và biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
9. Yaññasuttaṃ [Mūla]
120. Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena rañño pasenadissa kosalassa mahāyañño paccupaṭṭhito hoti, pañca ca usabhasatāni pañca ca vacchatarasatāni pañca ca vacchatarisatāni pañca ca ajasatāni pañca ca urabbhasatāni thūṇūpanītāni honti yaññatthāya. Yepissa te honti dāsāti vā pessāti vā kammakarāti vā, tepi daṇḍatajjitā bhayatajjitā assumukhā rudamānā parikammāni karonti.
Atha kho sambahulā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pavisiṃsu. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinno kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, rañño pasenadissa kosalassamahāyañño paccupaṭṭhito hoti, pañca ca usabhasatāni pañca ca vacchatarasatāni pañca ca vacchatarisatāni pañca ca ajasatāni pañca ca urabbhasatāni thūṇūpanītāni honti yaññatthāya. Yepissa te honti dāsāti vā pessāti vā kammakarāti vā, tepi daṇḍatajjitā bhayatajjitā assumukhā rudamānā parikammāni karontī’’ti.
Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
‘‘Assamedhaṃ purisamedhaṃ, sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggaḷhaṃ;
Mahāyaññā mahārambhā [vājapeyyuṃ; niraggaḷaṃ mahārambhā (ka.)], na te honti mahapphalā.
‘‘Ajeḷakā ca gāvo ca, vividhā yattha haññare;
Na taṃ sammaggatā yaññaṃ, upayanti mahesino.
‘‘Ye ca yaññā nirārambhā, yajanti anukulaṃ sadā;
Ajeḷakā ca gāvo ca, vividhā nettha haññare;
Etaṃ sammaggatā yaññaṃ, upayanti mahesino.
‘‘Etaṃ yajetha medhāvī, eso yañño mahapphalo;
Etañhi yajamānassa, seyyo hoti na pāpiyo;
Yañño ca vipulo hoti, pasīdanti ca devatā’’ti.
9. Yaññasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
120. Navame thūṇūpanītānīti thūṇaṃ upanītāni, thūṇāya baddhāni honti. Parikammāni karontīti ettāvatā tehi bhikkhūhi rañño āraddhayañño tathāgatassa ārocito. Kasmā pana raññā ayaṃ yañño āraddho? Dussupinapaṭighātāya. Ekadivasaṃ kira rājā sabbālaṅkārappaṭimaṇḍito hatthikkhandhavaragato nagaraṃ anusañcaranto vātapānaṃ vivaritvā olokayamānaṃ ekaṃ itthiṃ disvā tassā paṭibaddhacitto tatova paṭinivattitvā antepuraṃ pavisitvā ekassa purisassa tamatthaṃ ārocetvā ‘‘gaccha tassā sassāmikabhāvaṃ vā assāmikabhāvaṃ vā jānāhī’’ti pesesi. So gantvā pucchi. Sā ‘‘eso me sāmiko āpaṇe nisinno’’ti dassesi. Rājapuriso rañño tamatthaṃ ācikkhi. Rājā taṃ purisaṃ pakkosāpetvā ‘‘maṃ upaṭṭhahā’’ti āha. ‘‘Nāhaṃ, deva, upaṭṭhahituṃ jānāmī’’ti ca vutte ‘‘upaṭṭhānaṃ nāma na ācariyassa santike uggahetabba’’nti balakkārena āvudhaphalakaṃ gāhāpetvā upaṭṭhākaṃ akāsi. Upaṭṭhahitvā gehaṃ gatamattameva ca naṃ puna pakkosāpetvā ‘‘upaṭṭhākena nāma rañño vacanaṃ kattabbaṃ, gaccha ito yojanamatte amhākaṃ sīsadhovanapokkharaṇī atthi, tato aruṇamattikañca lohituppalamālañca gaṇhitvā ehi. Sace ajjeva nāgacchasi, rājadaṇḍaṃ karissāmī’’ti vatvā pesesi. So rājabhayena nikkhamitvā gato.
Rājāpi tasmiṃ gate dovārikaṃ pakkosāpetvā, ‘‘ajja sāyanheyeva dvāraṃ pidahitvā ‘ahaṃ rājadūto’ti vā ‘uparājadūto’ti vā bhaṇantānampi mā vivarī’’ti āha. So puriso mattikañca uppalāni ca gahetvā dvāre pihitamatte āgantvā bahuṃ vadantopi dvāraṃ alabhitvā parissayabhayena jetavanaṃ gato. Rājāpi rāgapariḷāhena abhibhūto kāle nisīdati, kāle tiṭṭhati, kāle nipajjati, sanniṭṭhānaṃ alabhanto yattha katthaci nisinnakova makkaṭaniddāya niddāyati.
Pubbe ca tasmiṃyeva nagare cattāro seṭṭhiputtā paradārikakammaṃ katvā nandopanandāya nāma lohakumbhiyā nibbattiṃsu. Te pheṇuddehakaṃ paccamānā tiṃsavassasahassāni heṭṭhā gacchantā kumbhiyā talaṃ pāpuṇanti, tiṃsavassasahassāni upari gacchantā matthakaṃ pāpuṇanti. Te taṃ divasaṃ ālokaṃ oloketvā attano dukkaṭabhayena ekekaṃ gāthaṃ vattukāmā vattuṃ asakkontā ekekaṃ akkharameva āhaṃsu. Eko sa-kāraṃ, eko so-kāraṃ, eko na-kāraṃ, eko du-kāraṃ āha. Rājā tesaṃ nerayikasattānaṃ saddaṃ sutakālato paṭṭhāya sukhaṃ avindamānova taṃrattāvasesaṃ vītināmesi.
Aruṇe uṭṭhite purohito āgantvā taṃ sukhaseyyaṃ pucchi. So ‘‘kuto me, ācariya, sukha’’nti? Vatvā, ‘‘supine evarūpe sadde assosi’’nti ācikkhi. Brāhmaṇo – ‘‘imassa rañño iminā supinena vuḍḍhi vā hāni vā natthi, apica kho pana yaṃ imassa gehe atthi, taṃ samaṇassa gotamassa hoti, gotamasāvakānaṃ hoti, brāhmaṇā kiñci na labhanti, brāhmaṇānaṃ bhikkhaṃ uppādessāmī’’ti, ‘‘bhāriyo ayaṃ, mahārāja, supino tīsu jānīsu ekā paññāyati, rajjantarāyo vā bhavissati jīvitantarāyo vā, devo vā na vassissatī’’ti āha. Kathaṃ sotthi bhaveyya ācariyāti? ‘‘Mantetvā ñātuṃ sakkā, mahārājāti. Gacchatha ācariyehi saddhiṃ mantetvā amhākaṃ sotthiṃ karothā’’ti.
So sivikasālāyaṃ brāhmaṇe sannipātetvā tamatthaṃ ārocetvā, ‘‘visuṃ visuṃ gantvā evaṃ vadathā’’ti tayo vagge akāsi. Brāhmaṇā pavisitvā rājānaṃ sukhaseyyaṃ pucchiṃsu. Rājā purohitassa kathitaniyāmeneva kathetvā ‘‘kathaṃ sotthi bhaveyyā’’ti pucchi. Mahābrāhmaṇā – ‘‘sabbapañcasataṃ yaññaṃ yajitvā etassa kammassa sotthi bhaveyya, evaṃ, mahārāja, ācariyā kathentī’’ti āhaṃsu. Rājā tesaṃ sutvā anabhinanditvā appaṭikkositvā tuṇhī ahosi. Atha dutiyavaggabrāhmaṇāpi āgantvā tattheva kathesuṃ. Tathā tatiyavaggabrāhmaṇāpi. Atha rājā ‘‘yaññaṃ karontū’’ti āṇāpesi. Tato paṭṭhāya brāhmaṇā usabhādayo pāṇe āharāpesuṃ. Nagare mahāsaddo udapādi. Taṃ pavattiṃ ñatvā mallikā rājānaṃ tathāgatassa santikaṃ pesesi. So gantvā bhagavantaṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi. Atha naṃ bhagavā – ‘‘handa kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divādivassā’’ti āha. Rājā – ‘‘ajja me, bhante, supinake cattāro saddā sutā, sohaṃ brāhmaṇe pucchiṃ. Brāhmaṇā ‘bhāriyo, mahārāja, supino, sabbapañcasataṃ yaññaṃ yajitvā paṭikammaṃ karomāti āraddhā’’’ti āha. Kinti te, mahārāja, saddā sutāti. So yathāsutaṃ ārocesi. Atha naṃ bhagavā āha – pubbe, mahārāja, imasmiṃyeva nagare cattāro seṭṭhiputtā paradārikā hutvā nandopanandāya lohakumbhiyā nibbattā saṭṭhivassasahassamatthake uggacchiṃsu.
Tattha eko –
‘‘Saṭṭhivassasahassāni, paripuṇṇāni sabbaso;
Niraye paccamānānaṃ, kadā anto bhavissatī’’ti.(pe. va. 802; jā. 1.4.54) –
Imaṃ gāthaṃ vatthukāmo ahosi. Dutiyo –
‘‘Sohaṃ nūna ito gantvā, yoniṃ laddhāna mānusiṃ;
Vadaññū sīlasampanno, kāhāmi kusalaṃ bahu’’nti. (pe. va. 805; jā. 1.4.56) –
Imaṃ gāthaṃ vatthukāmo ahosi. Tatiyo –
‘‘Natthi anto kuto anto, na anto paṭidissati;
Tadā hi pakataṃ pāpaṃ, mama tuyhañca mārisā’’ti. (pe. va. 803; jā. 1.4.55) –
Imaṃ gāthaṃ vatthukāmo ahosi. Catuttho –
‘‘Dujjīvitamajīvimhā, ye sante na dadamhase;
Vijjamānesu bhogesu, dīpaṃ nākamha attano’’ti. (pe. va. 804; jā. 1.4.53) –
Imaṃ. Te imā gāthā vattuṃ asakkontā ekekaṃ akkharaṃ vatvā tattheva nimuggā. Iti, mahārāja, te nerayikasattā yathākammena viraviṃsu. Tassa saddassa sutapaccayā tuyhaṃ hāni vā vuḍḍhi vā natthi. Ettakānaṃ pana pasūnaṃ ghātanakammaṃ nāma bhāriyanti nirayabhayena tajjetvā dhammakathaṃ kathesi. Rājā dasabale pasīditvā, ‘‘muñcāmi, nesaṃ jīvitaṃ dadāmi, haritāni ceva tiṇāni khādantu, sītalāni ca pānīyāni pivantu, sīto ca nesaṃ vāto upavāyatū’’ti vatvā, ‘‘gacchatha hārethā’’ti manusse āṇāpesi. Te gantvā brāhmaṇe palāpetvā taṃ pāṇasaṅghaṃ bandhanato mocetvā nagare dhammabheriṃ carāpesuṃ.
Atha rājā dasabalassa santike nisinno āha – ‘‘bhante, ekaratti nāma tiyāmā hoti, mayhaṃ pana ajja dve rattiyo ekato ghaṭitā viya ahesu’’nti. Sopi puriso tattheva nisinno āha – ‘‘bhante, yojanaṃ nāma catugāvutaṃ hoti, mayhaṃ pana ajja dve yojanāni ekato katāni viya ahesu’’nti. Atha bhagavā – ‘‘jāgarassa tāva rattiyā dīghabhāvo pākaṭo, santassa yojanassa dīghabhāvo pākaṭo, vaṭṭapatitassa pana bālaputhujjanassa anamataggasaṃsāravaṭṭaṃ ekantadīghamevā’’ti rājānañca tañca purisaṃ nerayikasatte ca ārabbha dhammapade imaṃ gāthaṃ abhāsi –
‘‘Dīghā jāgarato ratti, dīghaṃ santassa yojanaṃ;
Dīgho bālānaṃ saṃsāro, saddhammaṃ avijānata’’nti. (dha. pa. 60);
Gāthāpariyosāne so itthisāmiko puriso sotāpattiphale patiṭṭhahi. Etamatthaṃ viditvāti etaṃ kāraṇaṃ jānitvā.
Assamedhantiādīsu – porāṇarājakāle kira sassamedhaṃ purisamedhaṃ sammāpāsaṃ vācāpeyyanti cattāri saṅgahavatthūni ahesuṃ, yehi rājāno lokaṃ saṅgaṇhiṃsu. Tattha nipphannasassato dasamabhāgaggahaṇaṃ sassamedhaṃ nāma, sassasampādane medhāvitāti attho. Mahāyodhānaṃ chamāsikaṃ bhatta-vetanānuppadānaṃ purisamedhaṃ nāma, purisasaṅgaṇhane medhāvitāti attho. Daliddamanussānaṃ hatthato lekhaṃ gahetvā tīṇi vassāni vināva vaḍḍhiyā sahassadvisahassamattadhanānuppadānaṃ sammāpāsaṃ nāma. Tañhi sammā manusse pāseti, hadaye bandhitvā viya ṭhapeti, tasmā sammāpāsanti vuccati. ‘‘Tāta mātulā’’tiādinā nayena saṇhavācābhaṇanaṃ vācāpeyyaṃ nāma, piyavācāti attho. Evaṃ catūhi saṅgahavatthūhi saṅgahitaṃ raṭṭhaṃ iddhañceva hoti phītañca pahūtaannapānaṃ khemaṃ nirabbudaṃ. Manussā mudā modamānā ure putte naccentā apārutagharadvārā viharanti. Idaṃ gharadvāresu aggaḷānaṃ abhāvato niraggaḷanti vuccati. Ayaṃ porāṇikā paveṇī.
Aparabhāge pana okkākarājakāle brāhmaṇā imāni cattāri saṅgahavatthūni imañca raṭṭhasampattiṃ parivattetvā uddhaṃmūlakaṃ katvā assamedhaṃ purisamedhanti ādike pañca yaññe nāma akaṃsu. Tesu assamettha medhanti vadhantīti assamedho. Dvīhi pariyaññehi yajitabbassa ekavīsatiyūpassa ekasmiṃ majjhimadivaseyeva sattanavutipañcapasusataghātabhiṃsanassa ṭhapetvā bhūmiñca purise ca avasesasabbavibhavadakkhiṇassa yaññassetaṃ adhivacanaṃ. Purisamettha medhantīti purisamedho. Catūhi pariyaññehi yajitabbassa saddhiṃ bhūmiyā assamedhe vuttavibhavadakkhiṇassa yaññassetaṃ adhivacanaṃ. Sammamettha pāsentīti sammāpāso. Divase divase sammaṃ khipitvā tassa patitokāse vediṃ katvā saṃhārimehi yūpādīhi sarassatinadiyā nimuggokāsato pabhuti paṭilomaṃ gacchantena yajitabbassa satrayāgassetaṃ adhivacanaṃ. Vājamettha pivantīti vājapeyyo. Ekena pariyaññena sattarasahi pasūhi yajitabbassa beluvayūpassa sattarasakadakkhiṇassa yaññassetaṃ adhivacanaṃ. Natthi ettha aggaḷāti niraggaḷo. Navahi pariyaññehi yajitabbassa saddhiṃ bhūmiyā ca purisehi ca assamedhe vuttavibhavadakkhiṇassa sabbamedhapariyāyanāmassa assamedhavikappassevetaṃ adhivacanaṃ. Mahārambhāti mahākiccā mahākaraṇīyā. Sammaggatāti sammā paṭipannā buddhādayo. Nirārambhāti appatthā appakiccā. Yajanti anukulanti anukulesu yajanti, yaṃ niccabhattādi pubbapurisehi paṭṭhapitaṃ, taṃ aparāparaṃ anupacchinnattā manussā dadantīti attho. Navamaṃ.