- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Abbot: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Website: chuaphapluan.com
- View Map
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 21.6.2022
KHAM NHẪN VỚI SỰ HIỂU BIẾT
Kinh Kẻ Hung Dữ Bhāradvāja (Asurindakasuttaṃ)
CHƯƠNG VII. TƯƠNG ƯNG BÀ LA MÔN – PHẨM A LA HÁN THỨ NHẤT (S.i,163)
Người ngu tin vào sức mạnh của lời nói hung dữ. Người thiện trí, trái lại, tin vào giá trị của kham nhẫn. Trong lúc người đời tin sự ăn miếng trả miếng là khôn ngoan thì bậc cao minh hiểu rằng đó chỉ là chuyện bôi tro trét trấu lẫn nhau vốn chẳng đi về đâu. Thiền tông Trung Hoa có thành ngữ “sự im lặng sấm sét” mang ý nghĩa tương tự như “sự kham nhẫn với hiểu biết” ở đây. Bi kịch của cuộc sống là khi “cuồng nộ lên men” người ta chỉ muốn dùng binh khí miệng lưỡi mà không bình tâm nghĩ tới hậu quả để khi “khói súng tan biến” thì cái còn lại chỉ là chết chóc đau thương. Nói lời hung dữ chỉ cần phẫn nộ. Kham nhẫn trước lời nói hung dữ cần sự hiểu biết.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Assosi kho asurindakabhāradvājo brāhmaṇo – ‘‘bhāradvājagotto brāhmaṇo kira samaṇassa gotamassa santike agārasmā anagāriyaṃ pabbajito’’ti kupito anattamano yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ asabbhāhi pharusāhi vācāhi akkosati paribhāsati. Evaṃ vutte, bhagavā tuṇhī ahosi. Atha kho asurindakabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘jitosi, samaṇa, jitosi, samaṇā’’ti.
Thuở ấy Đức Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), chùa Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivāpa (khu vực cho sóc ăn trong chùa).
Bấy giờ Bà la môn Asurindaka Bhāradvāja được nghe Bà la môn Bhāradvājagotta đã từ bỏ gia đình. xuất gia, thọ giới với Đức Thế Tôn. Hay tin nầy ông ấy phẫn nộ, tức tối đi đến Đức Thế Tôn. Khi gặp Đức Thế Tôn buông lời mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng với những ác ngữ, vọng ngôn.
Nghe những điều như vậy, Đức Thế Tôn không nói gì.
Rồi Bà-la-môn Asurindaka Bhāradvāja nói với Đức Thế Tôn:
-- Này Sa-môn, Ông đã thua. Này Sa-môn, Ông đã thua!
(Thế Tôn)
‘‘Jayaṃ ve maññati bālo, vācāya pharusaṃ bhaṇaṃ;
Jayañcevassa taṃ hoti, yā titikkhā vijānato.
‘‘Tasseva tena pāpiyo, yo kuddhaṃ paṭikujjhati;
Kuddhaṃ appaṭikujjhanto, saṅgāmaṃ jeti dujjayaṃ.
‘‘Ubhinnamatthaṃ carati, attano ca parassa ca;
Paraṃ saṅkupitaṃ ñatvā, yo sato upasammati.
‘‘Ubhinnaṃ tikicchantānaṃ, attano ca parassa ca;
Janā maññanti bāloti, ye dhammassa akovidā’’ti.
‘‘Kẻ thiểu trí nghĩ mình thắng
Khi nói ra những lời thô ác
Đối với người có hiểu biết
Kham nhẫn mới là chiến thắng.
‘‘Ai mạ lỵ kẻ mạ lỵ
Chỉ khiến mình tệ hơn
Không mạ lỵ kẻ mạ ly
Chiến thắng trận khó thắng.
‘‘Người sống lợi lạc cả hai
Bản thân và cả tha nhân
Khi biết đối tượng giận dữ
Vị ấy chánh niệm an hoà.
‘‘Người chữa lành cho cả hai
Bản thân và cả tha nhân
Quần chúng nghĩ là thiếu trí
Vì không hiểu rõ chánh pháp.
Evaṃ vutte, asurindakabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama...pe... abbhaññāsi. Aññataro ca panāyasmā bhāradvājo arahataṃ ahosī’’ti.
Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn Asurindaka bạch Đức Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama...,"... không còn trở lại đời sống này nữa."
Và Tôn giả Bhārahvāja trở thành một vị A-la-hán nữa.
‘‘Jayaṃ ve maññati bālo = kẻ ngu nghĩ mình thắng
vācāya pharusaṃ bhaṇaṃ = khi nói những lời hung dữ
Jayañcevassa taṃ hoti yā titikkhā vijānato = người trí biết sự kham nhẫn là chiến thắng thật sự
‘‘Tasseva tena pāpiyo yo kuddhaṃ paṭikujjhati = Ai thoá mạ kẻ thoá mạ chỉ mình tệ hơn
Kuddhaṃ appaṭikujjhanto saṅgāmaṃ jeti dujjayaṃ = Ai không mạt sát kẻ mạt sát mình người ấy chiến thắng trận khó thắng
‘‘Ubhinnamatthaṃ carati attano ca parassa ca = người làm lợi lạc cho cả hai bản thân và cả tha nhân
Paraṃ saṅkupitaṃ ñatvā yo sato upasammati =Khi biết người kia giận dữ vị ấy chánh niệm an hoà
‘‘Ubhinnaṃ tikicchantānaṃ attano ca parassa ca = người chữa lành cho bản thân và cho người
Janā maññanti bāloti ye dhammassa akovidā’’ti = đám đông cho là thiểu trí vì họ không hiểu được chánh pháp.
Vị bà la môn trong bài kinh nầy là người em út trong nhà. Là em của hai bà la môn đề cập trong kinh số 1 và 2.
Sớ Giải giải thích kệ ngôn đầu tiên mà Đức Phật nói lên có nghĩa là “Những ai hiểu giá trị của sự kham nhẫn, sự chiến thắng của riêng người đó (yā titikkhā vijānato adhivāsanāya gunạṃ vijānantassa titikkhā adhivāsanā, ayaṃ tassa vijānato va jayo).
Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
3. Asurindakasuttaṃ [Mūla]
189. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Assosi kho asurindakabhāradvājo brāhmaṇo – ‘‘bhāradvājagotto brāhmaṇo kira samaṇassa gotamassa santike agārasmā anagāriyaṃ pabbajito’’ti kupito anattamano yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ asabbhāhi pharusāhi vācāhi akkosati paribhāsati. Evaṃ vutte, bhagavā tuṇhī ahosi. Atha kho asurindakabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘jitosi, samaṇa, jitosi, samaṇā’’ti.
‘‘Jayaṃ ve maññati bālo, vācāya pharusaṃ bhaṇaṃ;
Jayañcevassa taṃ hoti, yā titikkhā vijānato.
‘‘Tasseva tena pāpiyo, yo kuddhaṃ paṭikujjhati;
Kuddhaṃ appaṭikujjhanto, saṅgāmaṃ jeti dujjayaṃ.
‘‘Ubhinnamatthaṃ carati, attano ca parassa ca;
Paraṃ saṅkupitaṃ ñatvā, yo sato upasammati.
‘‘Ubhinnaṃ tikicchantānaṃ, attano ca parassa ca;
Janā maññanti bāloti, ye dhammassa akovidā’’ti.
Evaṃ vutte, asurindakabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama...pe... abbhaññāsi. Aññataro ca panāyasmā bhāradvājo arahataṃ ahosī’’ti.
3. Asurindakasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
189. Tatiye asurindakabhāradvājoti akkosakabhāradvājassa kaniṭṭho. Kupitoti teneva kāraṇena kuddho. Jayañcevassa taṃ hotīti asseva taṃ jayaṃ hoti, so jayo hotīti attho. Katamassāti? Yā titikkhā vijānato adhivāsanāya guṇaṃ vijānantassa titikkhā adhivāsanā, ayaṃ tassa vijānatova jayo. Bālo pana pharusaṃ bhaṇanto ‘‘mayhaṃ jayo’’ti kevalaṃ jayaṃ maññati. Tatiyaṃ.